Trường THPT Chu Văn An - Hà Nội (Ханой) | trường học, Trường cấp II

Vietnam / Dong Bang Song Hong / Ha Noi / Ханой / Phố Thụy Khuê, Số 10
 trường học, Trường cấp II

Thuộc phường Thụy Khuê/ quận Tây Hồ/ thành phố Hà Nội
Trường Trung học phổ thông Chu Văn An (còn được gọi là trường Chu Văn An, trường Bưởi, trường Chu) là một trường trung học phổ thông công lập ở Hà Nội. Được thành lập từ năm 1908, cho đến nay Chu Văn An là một trong những trường phổ thông lâu đời và có truyền thống nhất của nền giáo dục Việt Nam.
Được người Pháp thành lập với tên chính thức Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ) nhằm đào tạo nhân viên cho bộ máy cai trị của họ tại Bắc Kỳ, trường lại thường được biết tới với tên trường Bưởi, vốn được các học sinh dùng để thể hiện lòng yêu nước của mình. Năm 1945, trường được đổi tên thành Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim và giữ cái tên này từ đó cho tới nay. Cơ sở của trường ban đầu được đặt tại làng Thụy Khuê (nay là phường Thụy Khuê) bên cạnh hồ Tây, sau một thời gian phải sơ tán đi nhiều nơi do hoàn cảnh chiến tranh, trường chuyển về địa điểm cũ từ năm 1954 và cố định ở đó đến hiện tại.

Là một trong các trường phổ thông có tiếng ở Đông Dương khi xưa và Việt Nam hiện nay, trường Bưởi - Chu Văn An là nơi đào tạo các thế hệ trí thức có tinh thần dân tộc cao, trong đó có các nhân vật nổi tiếng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như Phạm Văn Đồng, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Khắc Viện... Trong số các giáo viên từng dạy ở trường Bưởi - Chu Văn An cũng có những thầy giáo nổi tiếng như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Xuân Hãn... Hiện nay, trường Chu Văn An và trường Trung học chuyên Hà Nội - Amsterdam là hai trường có hệ thống lớp chuyên của Sở giáo dục và Đào tạo Hà Nội. Cùng với Quốc học Huế và chuyên Lê Hồng Phong thành phố Hồ Chí Minh, trường đang được chính phủ đầu tư trong Dự án 3 trường trung học phổ thông trọng điểm của Việt Nam.

Mục lục [ẩn]
1 Lịch sử
1.1 Giai đoạn 1908 - 1945
1.2 Giai đoạn 1945 - 1954
1.3 Giai đoạn 1954 - 1986
1.4 Từ năm 1986 đến nay
1.5 Danh sách hiệu trưởng
2 Đào tạo
2.1 Cơ cấu tổ chức
2.2 Thi tuyển
2.3 Hệ thống lớp học
2.4 Kết quả đào tạo
2.5 Vinh dự
3 Hoạt động ngoại khóa
4 Cơ sở vật chất
5 Giáo viên và cựu học sinh nổi tiếng
6 Chú thích
7 Tham khảo
8 Liên kết ngoài



[sửa] Lịch sử

[sửa] Giai đoạn 1908 - 1945

Cổng trường Bưởi thời Pháp thuộc
Giờ thể dục của học sinh trường BưởiNgày 9 tháng 12 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương Klobukowski ra quyết định thành lập Collège du Protectorat (Trường Thành chung Bảo hộ - tương đương trường cấp II hiện nay) trên cơ sở sáp nhập Trường Thông ngôn Bờ sông, Trường trung học Jules Ferry Nam Định và lớp Sư phạm (Cours normal) phố Pottier (nay là phố Bảo Khánh). Năm 1931, trường được nâng cấp thành một lycée (tương đương trường cấp III hiện nay) - Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ)[2]. Tuy nhiên do trường được xây dựng trên đất làng Thụy Khuê (thời Hậu Lê là nơi đặt điện Thụy Chương[3]) ở vùng Kẻ Bưởi, ven hồ Tây nên người dân vẫn gọi là trường Bưởi. Trường Bưởi là cái tên mà các học sinh có tinh thần phản kháng lại người Pháp dùng khi đề cập đến trường nhằm không gọi cái tên chính thức người Pháp đặt.[4]

Cuối năm 1943 do Thế chiến thứ hai lan rộng, trường phải sơ tán một phần về tu chủng viện Phúc Nhạc (Ninh Bình) và phần còn lại vào Thanh Hoá, mãi đến giữa năm 1945 mới quay lại Hà Nội[5]. Tuy vậy số lượng học sinh của trường vẫn tăng đều trong khoảng thời gian từ 1937 (190 học sinh) đến 1944 (424 học sinh)[6]. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 6 năm 1945, Khâm sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra quyết định đổi tên trường thành Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An - lấy theo tên vị danh sư Chu Văn An dưới thời nhà Trần và cử giáo sư Nguyễn Gia Tường làm hiệu trưởng, đây là hiệu trưởng người Việt đầu tiên của trường Bưởi - Chu Văn An. Tên Trường Chu Văn An được giữ từ ngày đó đến nay, dù có lúc phải sơ tán, phải chia đôi trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.

Sau khi ra lệnh đóng cửa trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, người Pháp mở trường Trung học bảo hộ theo mô hình giáo dục Pháp với mục đích đào tạo công chức trung cao cấp người Việt cho bộ máy cai trị[7], nhưng cả Bắc Kỳ khi đó chỉ có trường Bưởi là lycée dành cho học sinh người Việt vì lycée Albert Sarraut là của học sinh Pháp, họ lấy rất ít học sinh Việt (đây cũng là đối thủ chính của trường Bưởi trong thời gian này cả về thành tích học tập lẫn thể thao[8]), và mãi sau mới thêm mấy trường trung học nữa ở Hải Phòng, Nam Định... Vì vậy nơi đây đã là cái nôi của lớp trí thức trẻ người Việt, một năm trường tuyển ở cả Bắc Kỳ đúng 120 chỉ tiêu[9] (và tỉ lệ học sinh của toàn Bắc Kỳ khi đó cũng thấp nhất nước, khoảng 1 học sinh/10.000 người dân[10]), đậu vào trường Bưởi trong thời gian này được gọi là cả một tự hào lớn lao[8], học trò ra trường đi vào khắp các ngành kinh tế - văn hoá, những người đại diện phần đông là xuất sắc. Không chỉ có học sinh người Việt, trường Bưởi còn là nơi học tập của một số học sinh Lào và Campuchia trong đó phải kể tới Xu-pha-nu-vông và Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn. Học phí thời gian này chừng 4 đồng Đông Dương một tháng, nên vấn đề giành học bổng để học tập là một vấn đề rất quan trọng[9][4].

Tuy nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ không đề ra mục tiêu giáo dục tinh thần dân tộc, các học sinh trong trường đã thông qua những hành động cụ thể đi ngược lại chủ trương ban đầu đó. Họ tổ chức bãi khóa đòi ân xá nhà yêu nước Phan Bội Châu hay để tang Phan Chu Trinh, hưởng ứng phong trào Việt Minh, tham gia vào các nhóm luyện võ cổ truyền và truyền nhau các lời chào hỏi yêu nước học được từ thầy dạy võ của mình[4], và xung đột với các cộng tác viên trường trung học dành cho tầng lớp thượng lưu Albert Sarraut[4][8]... Một số học sinh đã sớm tham gia các phong trào độc lập dân tộc như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Phạm Văn Đồng.


[sửa] Giai đoạn 1945 - 1954

Toàn cảnh trường đầu thế kỉ 20Sau Cách mạng tháng Tám trường phải học tạm ở thị xã Hà Đông vì trường phải dùng làm nơi đóng quân của quân Tưởng Giới Thạch. Đến đầu năm 1946, trường chuyển về Việt Nam học xá (tức Đông Dương học xá trước đó, nay là Đại học Bách khoa Hà Nội). Sau kỳ nghỉ hè 1946, trường lại chuyển về một trường trung học nữ Pháp (bây giờ là Tòa nhà Bộ Tư pháp)[11].

Khi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ, trường Chu Văn An được chia làm hai phân hiệu, một phân hiệu chuyển về vùng kháng chiến Đào Giã - Phú Thọ do thầy giáo Trần Văn Khang làm hiệu trưởng, phân hiệu thứ hai ở lại Hà Nội. Trong những năm Hà Nội bị tạm chiến, nhà trường bị binh đoàn xe tăng Pháp chiếm đóng, nên thầy và trò phải tạm trú tại trường nữ sinh Đồng Khánh (nay là trường Trưng Vương) ở phố Hàng Bài, sau lên Cửa Bắc chung với trường Sư phạm Đỗ Hữu Vị cũ (nay là trường Phan Đình Phùng). Sau ngày giải phóng Thủ đô tháng 10 năm 1954, trường Chu Văn An mới lại trở về địa điểm ban đầu cạnh hồ Tây[11].

Trong 9 năm chiến tranh, rất nhiều học sinh Chu Văn An đã gia nhập tự vệ và bộ đội Việt Minh. Nhiều người sau đó trở thành cán bộ cao cấp của chính quyền như Nguyễn Xiển[12], Phan Anh[13]... Một số sau này trở thành tướng lĩnh như thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự...


[sửa] Giai đoạn 1954 - 1986

Cổng trườngVào thập niên 1950 vì thiếu giảng viên, chính phủ có yêu cầu Pháp cung cấp một số giáo sư như ông bà Gérard Tongas sang thỉnh giáo ở trường Chu Văn An.[14]

Trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, vì không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, trường lại phải sơ tán đi nơi khác một lần nữa, lần này là về Khoái Châu (Hưng Yên). Rất nhiều con em cán bộ tập kết miền Nam cũng đã học tập tại trường.

Nhiều học sinh Chu Văn An sau đó đã cầm súng chiến đấu ở chiến trường miền Nam, nhiều người[15] đã trở thành liệt sĩ và được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân như liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, liệt sĩ Nguyễn Văn Chư (học sinh miền Nam, được truy tặng danh hiệu Anh hùng). Nhiều học sinh và cả giáo viên của trường đã tham gia chiến đấu trong các binh chủng không quân, phòng không chống lại các cuộc không kích của Không quân Hoa Kỳ, trong đó có những người được phong anh hùng như Nguyễn Tiến Sâm, Vũ Xuân Thiều[16].

Cho đến trước năm 1986, trường Chu Văn An là trường có lớp chuyên Toán duy nhất của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, nơi đã đào tạo nhiều thế hệ học sinh chuyên Toán giành thành tích cao trong các cuộc thi Học sinh giỏi Quốc gia, các kì thi Olympic Toán Quốc tế[17] và sau đó đã thành công trên nhiều lĩnh vực, tiêu biểu như GS. TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng, chủ nhiệm bộ môn Đại số tuyến tính trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS. TS Trương Gia Bình, tổng giám đốc công ty FPT, PGS. TS Đào Tiến Khoa, giám đốc Trung tâm tính toán cơ bản, Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân, GS.TS Ngô Việt Trung, viện trưởng Viện Toán học Việt Nam[18].


[sửa] Từ năm 1986 đến nay

Biển di tích lịch sử cấp quốc giaTừ năm 1986, các giáo viên và học sinh nòng cốt của trường được Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cử sang xây dựng trường chuyên mới của Hà Nội, trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam[19], Chu Văn An mất vị trí dẫn đầu về chất lượng giáo dục ở Hà Nội. Từ năm 1977 đến năm 1993, trường Chu Văn An chia sẻ cơ sở vật chất với trường cấp III Ba Đình theo hình thức một trường buổi sáng, một trường buổi chiều, hai trường hợp nhất làm một từ tháng 1 năm 1993.

Ngày 17 tháng 2 năm 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ra quyết định xây dựng trường Chu Văn An trở thành một trong 3 trường trung học phổ thông trọng điểm của Việt Nam[20] cùng với trường Quốc học Huế và trường chuyên Lê Hồng Phong Thành phố Hồ Chí Minh, trường Chu Văn An bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn đầu tư cơ sở mạnh mẽ cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, tiến tới kỉ niệm 100 năm ngày thành lập.

Ngày 6 tháng 11 năm 2004[20], trường Chu Văn An đã được nhận bằng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia Việt Nam. Lễ kỉ niệm 100 thành lập trường được tổ chức vào hai ngày 16 và 17 tháng 5 năm 2008[21].


[sửa] Danh sách hiệu trưởng
Thời gian Hiệu trưởng Ghi chú
1914 - 1918 Muss
1925 - 1926 Lombriger
1936 - 1939 Léon Autigeon
1940 - 1945 Perruca
1944 - 1945 Dizes Giám học phân hiệu Chu Văn An sơ tán ở Phú Nhạc
Tháng 6 - 8 năm 1945 Nguyễn Gia Tường Được bổ nhiểm sau khi Nhật đảo chính Pháp
Hiệu trưởng người Việt đầu tiên
Tháng 8 - 9 năm 1945 Dương Quảng Hàm Hiệu trưởng do Việt Minh bổ nhiệm
Hiệu trưởng đầu tiên trong nước Việt Nam độc lập
1948-1951 Phạm Xuân Độ Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại Hà Nội thuộc Pháp
1951-1953 Vũ Ngô Xán Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại Hà Nội thuộc Pháp
1953-1954 Mai Phương Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại Hà Nội thuộc Pháp
1945-1954 Trần Văn Khang Hiệu trưởng trường Chu Văn An tại vùng Đào Giã thuộc Việt Minh
1954-1958 Phạm Quang Hiếu
1958-1975 Hoàng Hùng
1975-1985 Hoàng Xuân Hoài
1985-1990 Nguyễn Đức Lưu
1990 Vũ Thái Bình
1990-1993 Trần Thúy Lan
1993-1997 Phạm Đình Đậu Hiệu trưởng khi trường hợp nhất với trường Ba Đình
1997-2008 Đinh Sĩ Đại
Nguồn: Phòng truyền thống trường trung học phổ thông Chu Văn An


[sửa] Đào tạo

[sửa] Cơ cấu tổ chức
Trường được tổ chức với mô hình ban giám hiệu điều hành và quản lý chung với hiệu trưởng là ông Đinh Sĩ Đại và các hiệu phó bà Lê Mai Anh, ông Nguyễn Thanh Lâm, Phạm Vương Tấn, và Lê Thúy Hải. Công tác giáo dục được phân chia thành 13 tổ bộ môn riêng biệt: Toán học, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Văn học, Sử học, Địa lý, Giáo dục công dân, Anh văn, Pháp văn, Tin học, Kỹ thuật công nghiệp và Thể dục. Ngoài ra còn các phòng ban thực hiện công tác phục vụ vận hành trường gồm: Văn thư, Thí nghiệm, Thư viện, Bảo vệ, Quản trị, Lao công và Y tế.


[sửa] Thi tuyển

Toàn cảnh trường Chu Văn An nhìn từ sân chínhTheo quy định của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội thì trường Chu Văn An cùng trường Hà Nội - Amsterdam là hai trường trung học phổ thông có hệ thống lớp chuyên của Sở, vì vậy học sinh tốt nghiệp lớp 9 muốn vào học tại hai trường này phải trải qua một kì thi tuyển chung thay vì chỉ cần xét điểm tốt nghiệp như khi đăng kí vào các trường trung học phổ thông khác trực thuộc Sở. Trên địa bàn Hà Nội, đây là hai trong số năm trường trung học phổ thông có kì thi tuyển đầu vào, ba trường còn lại là Hệ THPT chuyên Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, Khối chuyên THPT Đại học Sư phạm Hà Nội và Trường THPT Chuyên Ngoại Ngữ.

Kì thi tuyển gồm hai môn bắt buộc là Toán và Văn. Các thí sinh đăng kí thi tuyển vào các lớp chuyên phải thi thêm môn chuyên tương ứng: Với lớp chuyên Toán - Tin là môn Toán, chuyên Văn là môn Văn, chuyên Sử là môn Sử, chuyên Anh là môn tiếng Anh, chuyên Pháp là môn tiếng Pháp. Điểm xét tuyển sẽ là tổng điểm hai môn Toán, Văn (mỗi môn lấy hệ số 10) cộng với điểm môn chuyên nhân đôi (hệ số 20), thí sinh lấy từ cao xuống thấp đến hết chỉ tiêu của lớp chuyên. Các thí sinh chỉ đăng kí xét tuyển vào các lớp nâng cao sẽ thi hai môn Toán Văn và lấy điểm xét tuyển là tổng điểm hai môn này[22]. Do có truyền thống đào tạo tốt hơn nên điểm thi tuyển vào trường Hà Nội - Amsterdam thường cao hơn trường Chu Văn An, vì vậy chất lượng học sinh cũng cao hơn. Thông thường diện dự tuyển của hai trường chỉ bao gồm học sinh có hộ khẩu Hà Nội nhưng kể từ năm học 2008 - 2009, trường Chu Văn An được phép tuyển mở rộng học sinh của toàn miền Bắc (từ Thanh Hóa trở ra) với điều kiện học sinh đó phải đoạt giải trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh[22]. Chỉ tiêu tuyển sinh lớp 10 năm học 2008-2009 của trường Chu Văn An là 570 học sinh gồm 210 chỉ tiêu cho lớp chuyên và 360 chỉ tiêu cho lớp chất lượng cao[23].

Kì thi tuyển thông thường diễn ra vào cuối tháng 6 hàng năm, kết quả được thông báo nửa tháng sau đó. Năm học mới khai giảng từ ngày 5 tháng 9 và bế giảng vào ngày 23 tháng 5 của năm sau.


[sửa] Hệ thống lớp học

Một lớp học kiểu cổ với bàn ghế và sàn lát gỗTính cho đến niên khóa 2007 - 2010 Chu Văn An có khoảng trên 2000 học sinh thuộc 3 khối 10, 11 và 12[1]. Hệ thống lớp học của trường Chu Văn An bao gồm có 7 lớp chuyên: Toán - Tin (D1, D2, trước đây phân biệt riêng D1 là Toán và D2 là Tin); tiếng Anh (D3); Văn (D4); tiếng Pháp (D5) ; tiếng Nhật (D6) và Sử (S). Đây là các lớp được dạy tăng cường (số tiết, khối lượng kiến thức nhiều hơn so với các lớp còn lại) các môn chuyên tương ứng. Học sinh của các lớp chuyên hàng năm phải trải qua các kì thi học sinh giỏi cấp trường và thành phố, những học sinh đạt kết quả thi thấp trong năm sẽ phải thi một kì chuyển tiếp (với môn chuyên) vào đầu hè, nếu điểm thi vẫn thấp thì học sinh đó sẽ được chuyển xuống các lớp chất lượng cao. Ngoài ra, trường còn có 1 lớp song ngữ tiếng Pháp (F): đây là lớp thuộc hệ thống lớp song ngữ do Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF) tài trợ và đào tạo, học sinh sẽ được dạy các môn chính khóa song song tiếng Pháp và tiếng Việt. Đôi khi lớp này được chia đôi sĩ số thành hai lớp F1 và F2. Ngoài các lớp chuyên trên, trường Chu Văn An còn có 6 lớp đào tạo chất lượng cao (từ A1 đến A6).

Từ niên khóa 2007-2010 Chu Văn An sẽ là trường trung học phổ thông đầu tiên tại Hà Nội mở lớp chuyên tiếng Nhật, đây là đề án hợp tác của Bộ Giáo dục Việt Nam và Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam[24].

Trong thời gian Bộ Giáo dục còn sử dụng hệ thống giáo dục phân ban (ban Tự nhiên - ban Xã hội) thì hệ thống lớp không chuyên của Chu Văn An được chia thành các lớp A (ban Tự nhiên - ban A) và các lớp C (ban Xã hội - ban C).


[sửa] Kết quả đào tạo
Với tỷ lệ đỗ tốt nghiệp của học sinh thường xấp xỉ 100%, tỷ lệ đỗ đại học trên 70%[25], trường Chu Văn An được coi là cơ sở đào tạo cấp phổ thông trung học có chất lượng cao ở Hà Nội và Việt Nam[26]. Cụ thể niên khóa 2006 - 2007 học sinh Chu Văn An có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 99,1% (40,59% đỗ loại khá giỏi)[27], tỷ lệ đỗ đại học đạt 78%[28] với điểm thi trung bình 18,77 (xếp thứ 24 toàn quốc)[26].

Trước năm 1986 do là trường duy nhất có lớp chuyên Toán của thành phố Hà Nội nên học sinh Chu Văn An luôn có thành tích tốt trong các kì thi học sinh giỏi quốc gia và quốc tế. Trong các kì thi Olympic Toán Quốc tế, học sinh Chu Văn An đã đạt được 6 huy chương trong đó có 2 Huy chương Bạc và 4 Huy chương Đồng[17]. Từ năm 1986, với việc Sở Giáo dục Hà Nội rút đội ngũ giáo viên và học sinh nòng cốt để thành lập trường chuyên mới Hà Nội - Amsterdam, trường Chu Văn An không còn là trường dẫn đầu về thành tích đào tạo ở Hà Nội. Trong các kì thi học sinh giỏi thành phố và quốc gia gần đây, trường thường đứng thứ hai với thành tích thua kém khá xa trường dẫn đầu (Hà Nội - Amsterdam)[29].


[sửa] Vinh dự
Do thành tích dạy và học, trường đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng[15]:

Huân chương Lao Động hạng ba (năm 1964)
Huân chương Lao Động hạng nhì (năm 1992)
Huân chương Độc Lập hạng nhất (năm 1998)

[sửa] Hoạt động ngoại khóa
Tuy có cơ sở vật chất vào loại tốt[25] trong số các trường trung học công Hà Nội với một nhà thi đấu đa năng, một sân bóng đá và một sân bóng rổ ngoài trời tuy nhiên phong trào ngoại khóa của trường Chu Văn An không mạnh nếu so với trường chuyên còn lại của Hà Nội là Hà Nội - Amsterdam. Đội bóng đá nam Chu Văn An từng một lần vô địch giải bóng đá trung học phổ thông Hà Nội (năm 2002) còn đội bóng rổ chưa từng vô địch giải trung học phổ thông[30]. Chu Văn An còn một số câu lạc bộ ngoại khóa khác như khiêu vũ cổ điển (từng vô địch giải trung học phổ thông năm 2005), bóng bàn và cờ tướng. Về học thuật, học sinh trong trường có Câu lạc bộ Khoa học trẻ, Câu lạc bộ Văn học, Câu lạc bộ Tin học nhưng các câu lạc bộ này chủ yếu hoạt động vào dịp hè. Tất cả các hoạt động ngoại khóa của học sinh Chu Văn An đều do Ban chấp hành Đoàn trường Chu Văn An phụ trách.

Hàng năm, trường Chu Văn An đều tổ chức lễ hội truyền thống vào thứ Bảy và Chủ nhật tuần đầu tiên của tháng 11. Lễ hội thường bao gồm buổi họp mặt của cựu học sinh, hội cắm trại của học sinh lớp 11, 12 và đêm văn nghệ của học sinh Chu Văn An. Lễ kỉ niệm 100 năm ngày thành lập trường được tổ chức vào hai ngày 16 và 17 tháng 5 năm 2008[21].

Với khung cảnh cổ kính nên thơ, trường Chu Văn An đã được chọn làm bối cảnh cho bộ phim 12A và 4H của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Nguyên một lớp học đã được chọn làm diễn viên phụ cho bộ phim.[31]

Hoạt động của học sinh Chu Văn An

Ngày khai giảng

Hội trại tháng 11

Thi học sinh thanh lịch

Đêm văn nghệ







[sửa] Cơ sở vật chất
Chu Văn An có cơ sở vật chất pha trộn giữa phong cách kiến trúc của các nhà học kiểu Pháp đã gần 100 năm tuổi với các công trình mới được xây dựng trong thời gian gần đây nằm trong dự án xây dựng trường điểm quốc gia của chính phủ. Hệ thống nhà học gồm 3 dãy nhà 3 tầng là nhà A, B và E, 2 dãy nhà 1 tầng là nhà C và D đã được xây dựng từ thời Pháp và liên tục được cải tạo trên cơ sở giữ nguyên những nét kiến trúc cổ và tạo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh. Phục vụ cho công tác thực hành thực nghiệm, trường có một nhà học thực nghiệm gồm phòng đa phương tiện (multimedia), phòng đựng giáo cụ trực quan và đồ thí nghiệm, phòng thí nghiệm, một nhà Hội đồng sư phạm (nhà S) gồm phòng Hội đồng các phòng học tiếng và tin học. Về mảng tự học và ngoại khóa của học sinh, trường có có một thư viện , phòng truyền thống, một hội trường hiện đại với 200 chỗ ngồi tên là Giảng đường Thăng Long, khu nhà thi đấu và các khu luyện tập thể chất ngoài trời, một sân bóng đá, một sân bóng rổ, và vườn trường. Ngoài ra trường còn có kí túc xá dành cho các học sinh ở xa và 3 căng tin: hai căng tin mới ở nhà K (ký túc xá) và căng tin cũ cạnh nhà I (nhà tập).

Toà nhà cổ kính và đẹp nhất của trường là khu thư viện hay được gọi với cái tên Nhà Bát Giác, được xây dựng từ năm 1898. Ban đầu tòa nhà có tên Biệt thự Schneider (La villa Schneider) lấy theo tên người chủ căn biệt thự, một ông chủ xưởng giấy người Pháp tên là Henri Schneider. Sau đó tòa nhà được dùng làm nơi ở của Hiệu trưởng người Pháp của trường Trung học bảo hộ. Năm 1999, với sự giúp đỡ tài chính của vùng Île-de-France (Pháp), tòa nhà đã được tu sửa và hiện được dùng làm thư viện của trường.[32] Phòng truyền thống của trường vốn ở nhà Bát Giác đã được chuyển tới tòa nhà nằm sau khu Giảng đường Thăng Long. Đây nguyên là nơi ở của ông hiệu phó trường trung học bảo hộ mới được xây dựng lại năm 2006.

Ngày 19 tháng 1 năm 2007, trường đã khánh thành bức tượng Danh sư Chu Văn An, một trong các công trình chuẩn bị cho lễ kỉ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu Văn An.

Cơ sở vật chất của trường Chu Văn An

Khu kí túc xá mới

Nhà Bát Giác

Tượng đài Chu Văn An

Sân vận động







[sửa] Giáo viên và cựu học sinh nổi tiếng
Với truyền thống lâu đời của mình, trường Bưởi - Chu Văn An đã là nơi học tập và giảng dạy của rất nhiều danh nhân trên mọi lĩnh vực của Việt Nam. Dưới đây là một số giáo viên và cựu học sinh nổi tiếng của trường Bưởi - Chu Văn An.

Giáo viên
Nguyễn Phan Chánh[33], họa sĩ tranh lụa nổi tiếng.
Dương Quảng Hàm[11] (từ năm 1920 đến năm 1946), nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục nổi tiếng.
Hoàng Xuân Hãn[34] (học sinh khóa 1926, giảng dạy từ năm 1936 đến năm 1939), học giả, người soạn thảo Chương trình giáo dục phổ thông đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguyễn Văn Huyên[35] (1935 - 1938), nhà nghiên cứu văn hóa, bộ trưởng Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 29 năm.
Nguỵ Như Kon Tum[36] (1941 - 1945), nhà vật lý, hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Nguyễn Mạnh Tường[37], luật sư, người Việt Nam đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp.
Nguyễn Xiển[12] (học sinh khóa 1925, giảng dạy từ năm 1935 đến năm 1937), nhà khí tượng học, tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam.
Học sinh
Chính trị - quân sự
Phan Anh[13], luật sư, bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguyễn Văn Cừ[38] (khóa 1928), tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trịnh Đình Cửu[39], một trong những người tham gia thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm[40], nhà thơ, bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam, trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
Phạm Văn Đồng[41] (khóa 1924), thủ tướng Việt Nam trong 32 năm.
Dương Đức Hiền[42], tổng bí thư đầu tiên của Đảng Dân chủ Việt Nam.
Đặng Vũ Hiệp (khóa 1941), thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Nguyễn Cao Kỳ, thủ tướng và phó tổng thống của Việt Nam Cộng hòa
Kaysone Phomvihane[1], tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Souphanouvong[1], hoàng thân, chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Lê Trọng Tấn[43], đại tướng, tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Nguyễn Cơ Thạch[1], bộ trưởng Bộ Ngoại giao, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Vũ Xuân Thiều[16], Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngô Gia Tự[44] (khóa 1922), bí thư lâm thời của Xứ ủy Nam Kỳ.
Khoa học
Tạ Quang Bửu[45] (khóa 1926), nhà toán học, bộ trưởng Bộ Quốc phòng, bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguyễn Văn Chiển[46] (khóa 1934), nhà địa chất học, tổng biên tập Tập bản đồ (Atlas) Việt Nam.
Bùi Huy Đáp[47] (khóa 1931), nhà nông học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
Đỗ Xuân Hợp[48], nhà giải phẫu học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
Nguyễn Đình Ngọc[49], thiếu tướng Công an Nhân dân Việt Nam, nhà tình báo, phó chủ tịch Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam.
Dương Trung Quốc[50], nhà sử học, tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đại biểu Quốc hội.
Trần Đức Thảo[51], nhà triết học, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II.
Lê Văn Thiêm[52] (khóa 1936), nhà toán học, viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học.
Tôn Thất Tùng[53], nhà giải phẫu học, giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn.
Nguyễn Khắc Viện[54] (khóa 1932), bác sĩ, nhà văn hóa.
Văn học - Nghệ thuật
Bùi Văn Bảo[55] (khóa 1940), nhà giáo, soạn giả.
Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu)[56] (khóa 1933), nhà thơ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ)[13] (khóa 1915), nhà thơ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II.
Nguyễn Công Hoan[46] (khóa 1920), nhà văn, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
Nguyễn Hiến Lê[57] (khóa 1926), soạn giả, dịch giả.
Dương Bích Liên[58], họa sĩ, một trong bộ tứ Sáng - Nghiêm - Liên - Phái.
Vũ Đình Liên[59] (khóa 1930), nhà thơ, tác giả bài thơ Ông đồ, nhà giáo nhân dân.
Vương Trí Nhàn[60] (khóa 1958), nhà phê bình văn học, soạn giả.
Võ An Ninh[61], nhiếp ảnh gia, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
Hoàng Ngọc Phách[62] (khóa 1914), nhà văn, tác giả tiểu thuyết Tố tâm.
Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh)[63], nhà văn, bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.
Nguyễn Đình Thi[64] (khóa 1941), nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Trần Tiến[65], nghệ sĩ kịch nói, nghệ sĩ nhân dân.
Thanh Tùng[66], nhạc sĩ.
Tô Ngọc Vân[67], họa sĩ, một trong bộ tứ Trí - Vân - Lân - Cẩn.
Lĩnh vực khác
Trương Gia Bình[68] (khóa 1970), sáng lập viên, chủ tịch hội đồng quản trị công ty FPT.
Bùi Quang Ngọc[69] (khóa 1970), sáng lập viên, phó chủ tịch hội đồng quản trị công ty FPT.
Hoàng Đạo Thuý[70], lãnh tụ phong trào Hướng đạo Việt Nam.
Đặng Thuỳ Trâm[60] (khóa 1958), liệt sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam, tác giả Nhật ký Đặng Thùy Trâm.
Các thành phố lân cận:
Toạ độ:   21°2'35"N   105°49'55"E

Nhận xét

  • Các em học sinh Trường Chu Văn An! Các em được học dưới một ngôi trường nỗi tiếng như thế này quả là một đặc ân hiếm có. Các em phải là dân mạng good. Phải dọn sạch rác tại điểm trường mình, không cho kẻ xấu dùng lời lẽ thiếu văn hóa bôi bẩn địa điểm này trên Wiki Cách làm rất đơn giản: chỉ cần khi có bad Comment các em hảy bấm vào bàn tay chê cho đến khi nó bị điểm âm , khi đó sau tên wiki của kẻ xấu sẽ xuất hiện một nút tròn màu xám, bấm vào đó hai lần thì lời bình luận sẽ được xóa ( mỗi lần bấm phải ẩn hiện cửa sổ điểm đó lại ). Hảy phổ biến và hướng dẫn các bạn cùng chung tay dọn rác trên wiki.Hảy giử sạch bản đồ tổ quốc Việt Nam yêu dấu! Thank you
Bài viết này được chỉnh sửa lần cuối 9 năm trước