Quần thể di tích Quốc gia đình Lệ Mật (làng Rắn) (Làng Lệ Mật (làng Rắn nổi tiếng))

Vietnam / Dong Bang Song Hong / Ha Noi / Làng Lệ Mật (làng Rắn nổi tiếng) / Phố Việt Hưng, 01
 đền thờ, trung tâm cộng đồng

Làng Lệ Mật, trước thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, nay thuộc phường Việt Hưng, Long Biên, Hà Nội. Tại đây còn lưu lại những truyền thuyết về chiến công của Đức thánh Lệ Mật.

Theo thần phả trong đền có viết lại rằng: Vào cuối thời Vua Lý Thái Tông (1028-1054), có nàng công chúa đi thuyền du ngoạn trên dòng Thiên Đức (nay là sông Đuống) thì gặp Vua Thuỷ Tề. Thấy nàng nhan sắc xinh tươi, liền nổi sóng dữ, truyền cho thuồng luồng ba ba lên bắt. Nghe tin dữ, nhà vua lập tức điều binh khiển tướng đi cứu con, nhưng ở dưới đáy sông thì tướng sĩ đều lực bất tòng tâm. Lúc này, có chàng trai tên là Lệ Mật xin vua được cứu công chúa...

Cuối cùng, Lệ Mật đưa được xác công chúa lên bờ, trong tiếng reo hò của ba quân và niềm tiếc thương công chúa của nhà vua. Sau đó, nhà vua đã ban cho ngài chức quan Thái giám nội thị tự khanh cùng một trăm cân vàng, lụa là, gấm vóc, nhưng ngài đều khước từ không nhận...

Vào năm Kỷ Hợi (1119), ngày ngài “hoá”, vua Lý Nhân Tông truyền cho dân làng nơi đây xây lăng, lập đền và phong tặng cho ngài là “Thượng đẳng Phúc thần”. Ngài chính là Thành hoàng của làng, nhưng với uy danh nổi tiếng lẫm liệt, nên nhân dân quanh vùng gọi nơi đây là làng Lệ Mật. Ngôi đền được xây từ thời nhà Lý, đã được tôn tạo nhiều lần. Năm 1670 vào đời Vua Lê Huyền Tông (1662-1671), đền được đại tu nên có cả dấu kiến trúc của thời hậu Lê.
Các thành phố lân cận:
Toạ độ:   21°3'10"N   105°54'0"E

Nhận xét

  • Lệ Mật là một làng thuộc xã Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Nơi đây nổi tiếng với nghề truyền thống là nuôi rắn, bắt rắn cách đây hơn 900 năm. Làng rắn gắn liền với truyền thuyết chinh phục loài thủy quái mang hình tượng rắn khổng lồ của chàng trai họ Hoàng ở làng Lệ Mật vào đời vua Lý Thái Tông (1028-1054). Để tưởng nhớ đến chàng trai họ Hoàng, khi chàng mất người dân người dân làng Lệ Mật đã lập đình thờ chàng ở rìa phía nam làng Lệ Mật, bên bờ nam sông Đuống, suy tôn chàng là Đức Thánh Hoàng. Vào khoảng tháng ba (âm lịch) hàng năm, dân của khu Thập Tam Trại cũ và du khách bốn phương kéo về mang theo hương hoa, lễ vật, vừa để tham dự lễ hội làng vừa để cùng người dân địa phương tưởng niệm chàng trai họ Hoàng dũng cảm năm nào. Hàng năm cứ vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, khắp trong đình, ngoài làng đều được trang hoàng lộng lẫy, cờ quạt dàn bày đủ loại, đèn nến sáng rực, khói hương nghi ngút. Người dân đánh cá ở ao đình làm gỏi và múc nước từ giếng đình để làm lễ vật cúng dâng thần. Trong làng có rất nhiều người, nhiều dòng họ thạo nghề bắt rắn - đặc biệt là họ Nguyễn và họ Trần. Rắn được săn bắt về đây, nuôi dưỡng và chế ngự, trở nên phổ biến, thân thuộc, gần gũi như chó, như gà vậy. Nổi tiếng phải kể đến những gia đình nuôi rắn như gia đình ông Nguyễn Đặng Pháo và Trần Như Bản. Ông Pháo đã có hơn nửa thế kỷ trong nghề, các con ông được huấn luyện thuần thục trong việc bắt, nuôi, nấu cao rắn.
  • 1. Đình Lệ Mật Trước đây làng Lệ Mật có hai ngôi đình: đình Thượng và đình Hạ. Đình Thượng thờ trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đình Hạ, vốn được dựng cách vị trí hiện tại khoảng 200 mét. Nay dấu tích xưa đã thành đồng, thành bãi, nhưng vẫn còn được dân gian ghi nhận qua việc gọi tên một xứ đồng (ruộng Đình).Khách tham quan đến đây, nếu không được dân giải thích cặn kẽ về lịch sử khởi tạo quần thể di tích này, sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi lối kết cấu kỳ lạ: Tam quan chùa cao lớn sừng sững, đứng án ngữ trước tổng thể di tích đình Hạ (bao gồm nghi môn, sân, phương đình, 4 dãy tào mạc và chính đình). Nó vừa mang đậm dấu ấn xưa cũ của ngôi chùa làng, vừa là chứng tích ghi nhận một "sự kiện" trong lịch sử văn hóa làng Lệ Mật. Từ con đường rước kiệu vào tới nghi môn đình, khách tham quan phải đi qua 3 "mảng" di tích: đó là giếng đình, miếu công chúa và tam quan chùa Lệ Mật. Ngoài ra, cũng nằm trong quần thể di tích này còn có ao đình rộng tám sào nằm đối diện với tam quan chùa. Có lẽ nó nằm trong kết cấu tổng thể chùa Lệ Mật. Giếng đình: Là giếng tự nhiên, có tên gọi Thiên Hồ Lệ (Giếng thiên tạo). Giếng cũng do thầy Tả Ao yểm, nên trải qua nhiều đời vẫn còn nguyên vẹn, hầu như không bị sụt lở. Xưa, cả làng Lệ Mật gánh nước giếng về ăn. Giếng đình gắn kết với nhiều giai thoại, truyền thuyết xung quanh vị thành hoàng Lệ Mật. Trong tâm thức dân gian Lệ Mật, cùng với miếu công chúa, giếng là một trong những "di tích thiêng". ¬Miếu công chúa:là con gái vua Lý Thái Tông Miếu công chúa có kích thước nhỏ bé (rộng 6m2) với kết cấu kiến trúc, điêu khắc đơn giản. Nhưng điều kỳ lạ nhất là nó gắn kết chặt chẽ với một cây đa cổ thụ: một phần mái gắn sâu vào thân cây, trong khi phần mái còn lại bị rễ bao phủ. Trên cây đa, giữa chạc ba của thân cây mọc lên một cây cọ. Dân làng và khách thăm quan đều cho rằng đây là một hiện tượng "có một không hai". Miếu công chúa rất thiêng, không ít người do sơ ý nói năng hoặc có những cử chỉ "không phải" xúc phạm đến miếu thiêng mà bị mang vạ suốt đời. Dân làng còn gọi đây là "miếu trình" hay "miếu chúa", vì hàng năm vào dịp hội làng, vào khoảng 8 giờ sáng ngày 22-3 âm lịch diễn ra tục đánh cá ở giếng đình. Cá được đánh từ giếng lên, trước khi mang vào đình đều phải "trình" (đặt lên ban thờ rồi thắp hương) qua miếu công chúa. Tam quan: Chúng tôi không hiểu vì sao các cụ rời chùa (nhường đất cho đình Lệ Mật) lại không rời Tam quan. Rất may chùa chỉ chuyển sang khu đất nằm sát phía bên phải đình, từ đình có đường tắt đi sang chùa nên nhìn trên kết cấu mặt bằng tổng thể di tích đình - chùa Lệ Mật, người ta thấy vị trí của tam quan cũng không đến nỗi khập khiễng. Các cụ già đều khẳng định, tam quan cùng với chùa Lệ Mật được dựng nên từ thời Lý (?). Tam quan chùa Lệ Mật có kích thước cao lớn, bề thế, với lối kết cấu 2 tầng, 8 mái. Các mảng chạm nổi trang trí bám kết dày đặc cả hai mặt trong và ngoài. Đình Hạ: Được trùng tu lần gần đây nhất từ năm 1998, Sau nhiều lần trùng tu, đình vẫn giữ nguyên được mặt bằng tổng thể như khi khởi tạo, với lối kết cấu cổ điển của các ngôi đình muộn thời hậu Lê (thế kỷ XVII, XVIII). Từ tam quan bước vào, qua một sân rộng, giữa sân là một bức bình phong, 2 bên 2 dãy tào mạc (tả, hữu vu), mỗi dãy rộng 3 gian, ta bước tới nghi môn đình. Hai mảng nghi môn, mỗi bên có 2 cột nanh cao to sừng sững, được xây nối tiếp với 2 dãy tào mạc nữa, mỗi dãy rộng 5 gian. Giữa 2 tào mạc, sát với tiền đình là phương đình, kết cấu bởi 2 tầng 8 mái, đặt vuông vắn, cân đối giữa khoảng sân rộng. Qua phương đình, ta bước vào gian tiền tế rộng 7 gian (chưa kể 2 gian kép). Toàn bộ chính đình có kết cấu mặt bằng kiểu "nội công, ngoại quốc" được phân định bởi 2 sân thiên tỉnh. Sàn đình ngày nay tuy không lót bằng gỗ, nhưng ngay từ khi khởi tạo đã được phân bố từng mảng nền cao thấp khác nhau để phù hợp với vai vế của các bậc chức sắc, hương lão, giai đinh trong làng. Tòa tiền đình nằm kề sát trung đình, cùng được cấu tạo bởi 2 hàng cột cái, mỗi hàng 8 chiếc (đường kính mỗi cột khoảng 60cm). Toàn bộ vì kèo kết cấu theo kiểu chồng rường. Ở đây hầu như không có sự tham gia của điêu khắc trang trí (trừ một vài cấu kiện được chạm nông các hình hoa lá cách điệu). Người xem có cảm giác chủ nhân của ngôi đình dường như chỉ chú ý đến quy mô hoành tráng, bề thế của nó mà bỏ qua việc đầu tư cho chạm khắc trang trí. Gian hậu cung đặt một bức tượng đức thành hoàng và các đồ tế tự. Phía trước gian hậu cung đặt 3 hương án trên 3 bậc cao thấp khác nhau. Các hương án nay đều được chạm trổ, sơn son thếp vàng rất đẹp. Tuy nhiên, toàn bộ nghệ thuật trang trí nội thất đình đều tập trung nơi cửa võng. Ở đây, trừ các mảng chạm lộng bao quanh làm diềm, phần còn lại được chia thành nhiều ô chữ nhật to nhỏ khác nhau, tuân thủ theo nguyên tắc đăng đối qua một trục, từ kích thước mảng chạm tới các đề tài trang trí (ví dụ: mai - tùng, hạc - rùa, hoa hồng - hoa cúc…), và từng cặp môtíp trang trí lại đối xứng nhau (rồng, phượng, sư tử, rùa, cuốn thư, hổ phù…). Nhìn trên toàn cảnh, người xem dễ dàng nhận thấy, ở đây, đề tài tứ linh, trong đó đặc biệt là đề tài rồng được ưu tiên hàng đầu. Trên đó, có rất nhiều cảnh rồng, phượng quấn quít, rùa ngậm cuốn thư, hoặc rồng đan xen với cá chép hóa rồng. Trong đình Hạ, ngoài các đồ tế lễ còn một đôi hạc (cao gần 2m) cưỡi trên lưng rùa và một con ngựa trắng. Nghe nói trước đây đình Hạ thờ một con ngựa hồng, sau bị mất cắp.
  • Ấn tượng sâu đậm nhất khi đến thăm Lệ Mật là món rắn xào xả ớt!
Bài viết này được chỉnh sửa lần cuối 11 năm trước