Huyện Mỏ Cày Bắc
Vietnam /
Dong Bang Song Cuu Long /
Ben Tre /
World
/ Vietnam
/ Dong Bang Song Cuu Long
/ Ben Tre
Sviets / Việt Nam / / /
quận, huyện, chỉ vẽ đường viền
Huyện Mỏ Cày Bắc là một huyện thuộc tỉnh Bến Tre.
Huyện Mỏ Cày Bắc về phía đông giáp huyện Mỏ Cày Nam, huyện Giồng Trôm; Tây giáp huyện Chợ Lách; Nam giáp tỉnh Vĩnh Long; Bắc giáp huyện Châu Thành, thành phố Bến Tre.
** Diện tích : 154.6 km2
** Dân số : 124.377 người
Các đơn vị hành chính :
Hoà Lộc
Hưng Khánh Trung A
Khánh Thạnh Tân
Nhuận Phú Tân
Phú Mỹ
Phước Mỹ Trung
Tân Bình
Tân Phú Tây
Tân Thành Bình
Tân Thanh Tây
Thành An
Thạnh Ngãi
Thanh Tân.
Ngược dòng lịch sử, thời chúa Nguyễn, vùng đất Mỏ Cày nằm trong tổng Tân An, châu Định Viễn. Khi Gia Long lên ngôi vua (1802), tổng Tân An được thăng lên thành huyện, mỗi cù lao trở thành một tổng (cù lao Minh thành tổng Tân Minh, cù lao Bảo thành tổng An Bảo) thuộc phủ Định Viễn.
Năm 1832, phủ Định Viễn cải thành phủ Hoằng An có hai huyện, Tân Minh và Bảo An, phần đất của Mỏ Cày thuộc huyện Tân Minh.
Đến năm 1837, nghĩa là sau khi lập xong Địa bạ Minh Mạng, phủ Hoằng An (phần trên cù lao Minh) lại chia thành hai huyện: Tân Minh, lỵ sở đặt tại Ba Vát và Duy Minh, lỵ sở đặt tại Cái Quao. Phần đất của Mỏ Cày ngày nay tương ứng với 7 tổng của cù lao Minh trong số 10 tổng lúc bấy giờ.
Năm 1867, Pháp chiếm xong cả Nam Kỳ Lục tỉnh, phân định lại địa giới hành chính, thì cù lao Bảo và cù lao Minh (của tỉnh Vĩnh Long cũ) thuộc tham biện Hoằng Trị, lỵ sở đặt tại Mỏ Cày (thị trấn ngày nay), nhưng đến cuối năm này, Hoằng Trị lại chia thành 2 sở tham biện: sở tham biện Mỏ Cày (tức cả phần đất cù lao Minh) và sở tham biện Bến Tre (tức cả phần đất cù lao Bảo).
Ngày 1-1-1900, nghị định của Toàn quyền Paul Doumer ký ngày 20-12-1899 bắt đầu thi hành, các sở tham biện và đại lý (délégation) đổi thành tỉnh (province). Tỉnh Bến Tre được thành lập gồm cù lao Bảo và cù lao Minh, có 21 tổng (bỏ cấp huyện).
Năm 1918, chính quyền thuộc địa phục hồi chế độ hành chính cấp quận (thay cho huyện làm trung gian giữa tỉnh và tổng), lúc bấy giờ tỉnh Bến Tre chia làm 4 quận.
- Cù lao Bảo: Quận Châu Thành và quận Ba Tri.
- Cù lao Minh: Quận Mỏ Cày và quận Thạnh Phú.
Quận Mỏ Cày lúc bấy giờ gồm 8 tổng, 27 thôn.
Huyện Mỏ Cày có số dân đông nhất so với các huyện trong tỉnh, gấp hai lần Chợ Lách, bằng cả dân số của hai huyện Thạnh Phú và Chợ Lách cộng lại và xấp xỉ bằng dân số của tỉnh Bến Tre năm 1925. Về mật độ dân số, Mỏ Cày chỉ kém thị xã và huyện Châu Thành.
Được hình thành từ nguồn phù sa của hai con sông lớn Hàm Luông và Cổ Phiên bồi đắp qua nhiều thế kỷ, Mỏ Cày có địa hình tương đối bằng phẳng, gồm những cánh đồng lúa, những ruộng mía và vườn cây ăn trái thỉnh thoảng xen kẽ một số cồn cát. Ngoài hai con sông lớn cặp hai bên bờ cù lao, Mỏ Cày còn có nhiều sông nhỏ và vừa (có sông rộng từ 100 đến 200m như sông Cái Cấm, sông Mỏ Cày, sông Thom) và những con rạch chia cắt dọc ngang, rất thuận lợi về mặt giao thông thủy.
Làng mạc được bao bọc bởi những con sông và ven sông thường là những vườn dừa, vườn cây ăn trái khác và những rừng dừa, rừng cây ăn trái khác và những rừng dừa nước, rừng bần tạo thành một khung cảnh thiên nhiên, với màu xanh bất tận. Đến mùa thu hoạch mía, hàng trăm lò đường đặt dọc theo ven sông tỏa ra trong không gian một mùi thơm ngào ngạt của những chảo mật mía đang sôi – mùi thơm đặc biệt dân dã ấy chỉ có thể bắt gặp được ở những vùng quê chuyên sản xuất mía đường.
Đất đai Mỏ Cày rất thích hợp cho sự tăng trưởng của 3 loại cây chính: lúa, dừa và mía. Hai loại cây sau tạo thành thế mạnh về cây công nghiệp của huyện, mang lại cho nền kinh tế Mỏ Cày hàng năm một nguồn thu to lớn.
Một đặc sản khác nổi tiếng của Mỏ Cày là cây thuốc lá, đặc biệt thuốc trồng ở những con giồng thuộc các xã Đa Phước Hội, An Thạnh, vùng quanh thị trấn và vùng phía tây bắc Mỏ Cày. Là vùng đất màu mỡ, được thiên nhiên ưu đãi về mặt sản xuất nông nghiệp (trừ một ít xã vùng nam Mỏ Cày, hàng năm vào những tháng gió chướng, nước biển dâng lên, nên đồng ruộng bị nhiễm nước lợ, năng suất cây trồng bị ảnh hưởng, còn đại đa số ruộng đất được tưới nước ngọt của hai con sông Hàm Luông và Cổ Chiên), con người ở đây lại siêng năng, cần cù, có nhiều sáng tạo trong sản xuất, do đó nhìn chung đời sống dân chúng khá sung túc.
Tuy nhiên, với diện tích đất nông nghiệp trong toàn huyện (26.000 ha) so với số dân, bình quân diện tích tính theo đầu người thấp, cho nên muốn nâng cao nhanh chóng đời sống của nhân dân ở đây không thể chỉ trồng cây đơn thuần những hoa lợi từ đất, mà phải mở ra một phương hướng mới trong phát triển kinh tế. Hiện nay, An Thạnh và Khánh Thạnh Tân đã trở thành hai làng nghề thủ công làm chỉ xơ dừa xuất khẩu lớn nhất của tỉnh. Kế hoạch mở rộng và phát triển thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, vừa để sử dụng hết sức lao động dư thừa của địa phương, vừa tăng cao giá trị, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu.
Chăn nuôi cũng có bước phát triển đáng kể. Đàn heo siêu thị tăng, có năm đạt đến 100 ngàn con. Gia cầm tăng gấp hai lần. Nổi bật nhất là việc sử dụng mặt nước ao hồ, mương vườn để nuôi tôm càng xanh, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích mặt nước đang sử dụng tăng gấp 5 lần so với trước. Công tác khuyến nông được quan tâm, xem đây như một biện pháp tốt nhất để đẩy nhanh phát triển nông nghiệp.
Việc tận dụng nguyên liệu tại chỗ từ cây mía, cây dừa được coi như là điều kiện để phát triển thủ công nghiệp như: xe chỉ xơ dừa, kết thảm, làm than thiêu kết, ép dầu, lò đường, cối kết, kẹo dừa. Những nghề truyền thống được phục hồi như chằm nón, đóng ghe, làm gạch ngói, lại phát triển thêm những nghề mới như may banh gia công, thêu xuất khẩu, chế biến thức ăn gia súc.
Ngay từ đầu sau ngày giải phóng, trên cơ sở xác định thế mạnh là sản xuất nông nghiệp, lãnh đạo huyện đã chú trọng đến việc đầu tư cho công tác thủy lợi. Và công tác này được từng bước phát triển hoàn chỉnh. Các kênh rạch được nạo vét thường xuyên. Đặc biệt, những công trình ngăn mặn ở Vàm Đồn, Cái Lức, Rạch Đập, Vàm Tân Hưng... trữ nước ngọt phục vụ trên 40.000 ha diện tích canh tác.
Lưới điện quốc gia đã được kéo về phủ khắp 26/26 xã và 1 thị trấn. Số hộ dân sử dụng điện đạt 60% trong tổng số hộ của toàn huyện. Mạng lưới điện thoại đã được nối kết 26/26 xã và 1 thị trấn. Toàn huyện có một trạm bưu điện, 8 bưu cục và 9 điểm bưu điện văn hóa xã. Bình quân 1,6 máy/100 dân.
Cho đến nay, hệ thống giao thông trong huyện, cả đường thủy và đường bộ được nối liền thông suốt đến tận vùng sâu, vùng xa. Không kể hệ thống quốc lộ 60, 57, tỉnh lộ 888, 882, các tuyến đường trong huyện dài 61 km, đường liên xã dài 180 km và đường liên ấp dài 494 km đã được nâng cấp, tạo sự đi lại, vận chuyển thuận lợi cho người dân. Cầu khỉ, về cơ bản đã được xóa, thay thế bằng cầu bê-tông. Xe 4 bánh có thể đến được trung tâm 26/26 xã và 1 thị trấn trong huyện.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục đã có bước phát triển vượt bậc so với trước kia. Toàn huyện hiện có 13 trường mẫu giáo độc lập, 16 đơn vị còn gắn với trường phổ thông, 27 trường tiểu học, 15 trường trung học cơ sở, 5 trường phổ thông trung học. Những lớp học ca ba đã hoàn toàn xóa bỏ. Số trẻ 6 tuổi ra lớp đạt gần 100%, 27/27 xã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ học sinh giỏi mỗi năm một tăng. Điều đáng ghi nhận là số học sinh thi đỗ vào cao đẳng và đại học ngày một đông. Việc chăm lo giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn dân. Ông Nguyễn Văn Cảnh ở xã Hương Mỹ đã hiến gần 1 ha đất để xây dựng trường phổ thông trung học. Vợ chồng ông Đặng Văn Thành, 9 năm liền tặng trên 100 suất học bổng (mỗi suất 200.000đ) cho trường tiểu học cơ sở xã An Thạnh. Và còn biết bao gương sáng có những đóng góp tiền của, công sức cho sự nghiệp “trồng người”.
Mức hưởng thụ văn hóa của người dân trong huyện ngày càng được nâng cao. Số hộ có phương tiện nghe nhìn chiếm 86,15%. Đài truyền thanh huyện, thư viện huyện cùng với 26 đài xã và trên 30 trạm truyền thanh ấp đã góp phần không nhỏ “xóa đói” thông tin trong nhân dân. Nhiều cuộc thi, hội diễn, liên hoan văn nghệ được tổ chức thường xuyên đã góp phần làm cho sinh hoạt ở nông thôn rộn rịp, tươi vui. Cuộc vận động “xây dựng nông thôn mới”, “xây dựng gia đình văn hóa”, “xây dựng ấp văn hóa” đã làm cho nông thôn Mỏ Cày có bước đổi thịt thay da thật sự.
Một bệnh viện khu vực hiện đại 200 giường bên cù lao Minh được xây dựng tại thị trấn Mỏ Cày và đi vào hoạt động vào giữa năm 2000 sẽ kết hợp với hệ thống y tế đã có của huyện cùng với đội ngũ y bác sĩ, cán bộ chuyên môn, tạo nên nhiều thuận lợi mới trong công tác chăm lo sức khỏe của người dân.
Là một huyện có số dân đông nhất tỉnh, có tiềm năng đất đai phong phú, có nguồn nhân lực dồi dào, nhân dân có trình độ giác ngộ và có truyền thống yêu nước, lại nằm trên một địa bàn có nhiều thuận lợi trong giao lưu kinh tế với bên ngoài, huyện Mỏ Cày có đầy đủ những yếu tố để đẩy nhanh tốc độ xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa. Những thành tích đã đạt được là quan trọng, cần được ghi nhận.
Huyện Mỏ Cày Bắc về phía đông giáp huyện Mỏ Cày Nam, huyện Giồng Trôm; Tây giáp huyện Chợ Lách; Nam giáp tỉnh Vĩnh Long; Bắc giáp huyện Châu Thành, thành phố Bến Tre.
** Diện tích : 154.6 km2
** Dân số : 124.377 người
Các đơn vị hành chính :
Hoà Lộc
Hưng Khánh Trung A
Khánh Thạnh Tân
Nhuận Phú Tân
Phú Mỹ
Phước Mỹ Trung
Tân Bình
Tân Phú Tây
Tân Thành Bình
Tân Thanh Tây
Thành An
Thạnh Ngãi
Thanh Tân.
Ngược dòng lịch sử, thời chúa Nguyễn, vùng đất Mỏ Cày nằm trong tổng Tân An, châu Định Viễn. Khi Gia Long lên ngôi vua (1802), tổng Tân An được thăng lên thành huyện, mỗi cù lao trở thành một tổng (cù lao Minh thành tổng Tân Minh, cù lao Bảo thành tổng An Bảo) thuộc phủ Định Viễn.
Năm 1832, phủ Định Viễn cải thành phủ Hoằng An có hai huyện, Tân Minh và Bảo An, phần đất của Mỏ Cày thuộc huyện Tân Minh.
Đến năm 1837, nghĩa là sau khi lập xong Địa bạ Minh Mạng, phủ Hoằng An (phần trên cù lao Minh) lại chia thành hai huyện: Tân Minh, lỵ sở đặt tại Ba Vát và Duy Minh, lỵ sở đặt tại Cái Quao. Phần đất của Mỏ Cày ngày nay tương ứng với 7 tổng của cù lao Minh trong số 10 tổng lúc bấy giờ.
Năm 1867, Pháp chiếm xong cả Nam Kỳ Lục tỉnh, phân định lại địa giới hành chính, thì cù lao Bảo và cù lao Minh (của tỉnh Vĩnh Long cũ) thuộc tham biện Hoằng Trị, lỵ sở đặt tại Mỏ Cày (thị trấn ngày nay), nhưng đến cuối năm này, Hoằng Trị lại chia thành 2 sở tham biện: sở tham biện Mỏ Cày (tức cả phần đất cù lao Minh) và sở tham biện Bến Tre (tức cả phần đất cù lao Bảo).
Ngày 1-1-1900, nghị định của Toàn quyền Paul Doumer ký ngày 20-12-1899 bắt đầu thi hành, các sở tham biện và đại lý (délégation) đổi thành tỉnh (province). Tỉnh Bến Tre được thành lập gồm cù lao Bảo và cù lao Minh, có 21 tổng (bỏ cấp huyện).
Năm 1918, chính quyền thuộc địa phục hồi chế độ hành chính cấp quận (thay cho huyện làm trung gian giữa tỉnh và tổng), lúc bấy giờ tỉnh Bến Tre chia làm 4 quận.
- Cù lao Bảo: Quận Châu Thành và quận Ba Tri.
- Cù lao Minh: Quận Mỏ Cày và quận Thạnh Phú.
Quận Mỏ Cày lúc bấy giờ gồm 8 tổng, 27 thôn.
Huyện Mỏ Cày có số dân đông nhất so với các huyện trong tỉnh, gấp hai lần Chợ Lách, bằng cả dân số của hai huyện Thạnh Phú và Chợ Lách cộng lại và xấp xỉ bằng dân số của tỉnh Bến Tre năm 1925. Về mật độ dân số, Mỏ Cày chỉ kém thị xã và huyện Châu Thành.
Được hình thành từ nguồn phù sa của hai con sông lớn Hàm Luông và Cổ Phiên bồi đắp qua nhiều thế kỷ, Mỏ Cày có địa hình tương đối bằng phẳng, gồm những cánh đồng lúa, những ruộng mía và vườn cây ăn trái thỉnh thoảng xen kẽ một số cồn cát. Ngoài hai con sông lớn cặp hai bên bờ cù lao, Mỏ Cày còn có nhiều sông nhỏ và vừa (có sông rộng từ 100 đến 200m như sông Cái Cấm, sông Mỏ Cày, sông Thom) và những con rạch chia cắt dọc ngang, rất thuận lợi về mặt giao thông thủy.
Làng mạc được bao bọc bởi những con sông và ven sông thường là những vườn dừa, vườn cây ăn trái khác và những rừng dừa, rừng cây ăn trái khác và những rừng dừa nước, rừng bần tạo thành một khung cảnh thiên nhiên, với màu xanh bất tận. Đến mùa thu hoạch mía, hàng trăm lò đường đặt dọc theo ven sông tỏa ra trong không gian một mùi thơm ngào ngạt của những chảo mật mía đang sôi – mùi thơm đặc biệt dân dã ấy chỉ có thể bắt gặp được ở những vùng quê chuyên sản xuất mía đường.
Đất đai Mỏ Cày rất thích hợp cho sự tăng trưởng của 3 loại cây chính: lúa, dừa và mía. Hai loại cây sau tạo thành thế mạnh về cây công nghiệp của huyện, mang lại cho nền kinh tế Mỏ Cày hàng năm một nguồn thu to lớn.
Một đặc sản khác nổi tiếng của Mỏ Cày là cây thuốc lá, đặc biệt thuốc trồng ở những con giồng thuộc các xã Đa Phước Hội, An Thạnh, vùng quanh thị trấn và vùng phía tây bắc Mỏ Cày. Là vùng đất màu mỡ, được thiên nhiên ưu đãi về mặt sản xuất nông nghiệp (trừ một ít xã vùng nam Mỏ Cày, hàng năm vào những tháng gió chướng, nước biển dâng lên, nên đồng ruộng bị nhiễm nước lợ, năng suất cây trồng bị ảnh hưởng, còn đại đa số ruộng đất được tưới nước ngọt của hai con sông Hàm Luông và Cổ Chiên), con người ở đây lại siêng năng, cần cù, có nhiều sáng tạo trong sản xuất, do đó nhìn chung đời sống dân chúng khá sung túc.
Tuy nhiên, với diện tích đất nông nghiệp trong toàn huyện (26.000 ha) so với số dân, bình quân diện tích tính theo đầu người thấp, cho nên muốn nâng cao nhanh chóng đời sống của nhân dân ở đây không thể chỉ trồng cây đơn thuần những hoa lợi từ đất, mà phải mở ra một phương hướng mới trong phát triển kinh tế. Hiện nay, An Thạnh và Khánh Thạnh Tân đã trở thành hai làng nghề thủ công làm chỉ xơ dừa xuất khẩu lớn nhất của tỉnh. Kế hoạch mở rộng và phát triển thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, vừa để sử dụng hết sức lao động dư thừa của địa phương, vừa tăng cao giá trị, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu.
Chăn nuôi cũng có bước phát triển đáng kể. Đàn heo siêu thị tăng, có năm đạt đến 100 ngàn con. Gia cầm tăng gấp hai lần. Nổi bật nhất là việc sử dụng mặt nước ao hồ, mương vườn để nuôi tôm càng xanh, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích mặt nước đang sử dụng tăng gấp 5 lần so với trước. Công tác khuyến nông được quan tâm, xem đây như một biện pháp tốt nhất để đẩy nhanh phát triển nông nghiệp.
Việc tận dụng nguyên liệu tại chỗ từ cây mía, cây dừa được coi như là điều kiện để phát triển thủ công nghiệp như: xe chỉ xơ dừa, kết thảm, làm than thiêu kết, ép dầu, lò đường, cối kết, kẹo dừa. Những nghề truyền thống được phục hồi như chằm nón, đóng ghe, làm gạch ngói, lại phát triển thêm những nghề mới như may banh gia công, thêu xuất khẩu, chế biến thức ăn gia súc.
Ngay từ đầu sau ngày giải phóng, trên cơ sở xác định thế mạnh là sản xuất nông nghiệp, lãnh đạo huyện đã chú trọng đến việc đầu tư cho công tác thủy lợi. Và công tác này được từng bước phát triển hoàn chỉnh. Các kênh rạch được nạo vét thường xuyên. Đặc biệt, những công trình ngăn mặn ở Vàm Đồn, Cái Lức, Rạch Đập, Vàm Tân Hưng... trữ nước ngọt phục vụ trên 40.000 ha diện tích canh tác.
Lưới điện quốc gia đã được kéo về phủ khắp 26/26 xã và 1 thị trấn. Số hộ dân sử dụng điện đạt 60% trong tổng số hộ của toàn huyện. Mạng lưới điện thoại đã được nối kết 26/26 xã và 1 thị trấn. Toàn huyện có một trạm bưu điện, 8 bưu cục và 9 điểm bưu điện văn hóa xã. Bình quân 1,6 máy/100 dân.
Cho đến nay, hệ thống giao thông trong huyện, cả đường thủy và đường bộ được nối liền thông suốt đến tận vùng sâu, vùng xa. Không kể hệ thống quốc lộ 60, 57, tỉnh lộ 888, 882, các tuyến đường trong huyện dài 61 km, đường liên xã dài 180 km và đường liên ấp dài 494 km đã được nâng cấp, tạo sự đi lại, vận chuyển thuận lợi cho người dân. Cầu khỉ, về cơ bản đã được xóa, thay thế bằng cầu bê-tông. Xe 4 bánh có thể đến được trung tâm 26/26 xã và 1 thị trấn trong huyện.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục đã có bước phát triển vượt bậc so với trước kia. Toàn huyện hiện có 13 trường mẫu giáo độc lập, 16 đơn vị còn gắn với trường phổ thông, 27 trường tiểu học, 15 trường trung học cơ sở, 5 trường phổ thông trung học. Những lớp học ca ba đã hoàn toàn xóa bỏ. Số trẻ 6 tuổi ra lớp đạt gần 100%, 27/27 xã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ học sinh giỏi mỗi năm một tăng. Điều đáng ghi nhận là số học sinh thi đỗ vào cao đẳng và đại học ngày một đông. Việc chăm lo giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn dân. Ông Nguyễn Văn Cảnh ở xã Hương Mỹ đã hiến gần 1 ha đất để xây dựng trường phổ thông trung học. Vợ chồng ông Đặng Văn Thành, 9 năm liền tặng trên 100 suất học bổng (mỗi suất 200.000đ) cho trường tiểu học cơ sở xã An Thạnh. Và còn biết bao gương sáng có những đóng góp tiền của, công sức cho sự nghiệp “trồng người”.
Mức hưởng thụ văn hóa của người dân trong huyện ngày càng được nâng cao. Số hộ có phương tiện nghe nhìn chiếm 86,15%. Đài truyền thanh huyện, thư viện huyện cùng với 26 đài xã và trên 30 trạm truyền thanh ấp đã góp phần không nhỏ “xóa đói” thông tin trong nhân dân. Nhiều cuộc thi, hội diễn, liên hoan văn nghệ được tổ chức thường xuyên đã góp phần làm cho sinh hoạt ở nông thôn rộn rịp, tươi vui. Cuộc vận động “xây dựng nông thôn mới”, “xây dựng gia đình văn hóa”, “xây dựng ấp văn hóa” đã làm cho nông thôn Mỏ Cày có bước đổi thịt thay da thật sự.
Một bệnh viện khu vực hiện đại 200 giường bên cù lao Minh được xây dựng tại thị trấn Mỏ Cày và đi vào hoạt động vào giữa năm 2000 sẽ kết hợp với hệ thống y tế đã có của huyện cùng với đội ngũ y bác sĩ, cán bộ chuyên môn, tạo nên nhiều thuận lợi mới trong công tác chăm lo sức khỏe của người dân.
Là một huyện có số dân đông nhất tỉnh, có tiềm năng đất đai phong phú, có nguồn nhân lực dồi dào, nhân dân có trình độ giác ngộ và có truyền thống yêu nước, lại nằm trên một địa bàn có nhiều thuận lợi trong giao lưu kinh tế với bên ngoài, huyện Mỏ Cày có đầy đủ những yếu tố để đẩy nhanh tốc độ xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa. Những thành tích đã đạt được là quan trọng, cần được ghi nhận.
Bài viết Wikimapia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Mỏ_Cày_Bắc
Các thành phố lân cận:
Toạ độ: 10°9'59"N 106°17'22"E
- Huyện Tháp Mười 97 Km
- Huyện Cao Lãnh 98 Km
- Huyện Tân Hưng-tỉnh Long An (62-C1) 127 Km
- Huyện Xuân Lộc 146 Km
- Huyện Hòn Đất 176 Km
- Huyện Đầm Dơi 181 Km
- Huyện Tánh Linh 189 Km
- Huyện Ngọc Hiển 231 Km
- Huyện đảo Phú Quốc 271 Km
- TP Johor Bahru (thủ phủ của bang Johor) 996 Km
- Xã Hòa Lộc 3.5 Km
- Xã Tân Thành Bình 5.6 Km
- Xã Nhuận Phú Tân 6.3 Km
- xã Thanh Tân 7.1 Km
- Cù Lao Dài 8.4 Km
- Xã Qưới An 14 Km
- Xã Chánh An 16 Km
- Cù lao Ngũ Hiệp 23 Km
- Thị xã Cai Lậy 32 Km
- Tỉnh Vĩnh Long 35 Km