Wikimapia is a multilingual open-content collaborative map, where anyone can create place tags and share their knowledge.

Kinh Vĩnh Tế ( Vinh Te Canal ).

Place marked for deletion.

Reason for deletion is: Duplicate place
It will be deleted in right now Deletion requested by jimbella63. You may cancel deletion.
Vietnam / Dong Bang Song Cuu Long / Chau Doc /
 invisible, do not draw title
 Upload a photo

Kênh Vĩnh Tế được Nguyễn văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) chỉ huy đào ròng rã 5 năm liền(1819-1824).Khi hoàn thành, vua Minh Mạng (triều Nguyễn) lấy tên vợ của Thoại Ngọc Hầu (bà Châu thị Vĩnh Tế)đặt tên cho con kênh chiến lược nầy.
(NguyenVanLuong chú thích)
T.tùng -từ ngồn widipedia +8
Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829), một danh tướng của triều Nguyễn. Ông sinh ngày 25 tháng 11 năm 1761 tại Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, được phong tước Ngọc Hầu và mất ngày 6 tháng 6 năm 1829. Ông là người đã chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà... để phát triển nông nghiệp và mở đường từ Châu Đốc đi núi Sam, Châu Đốc đi Lò Gò và Sóc Trăng. Ông có công lớn trong việc mở mang khai phá nhiều vùng đất phía Tây Nam Việt Nam.

Từ nguyên quán ở Quảng Nam, do loạn lạc nên gia đình ông di trú vào Nam tại cù lao Dài trên sông Cổ Chiên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long. Do công phò tá Gia Long, ông dần được thăng chức đến Trấn thủ Vĩnh Thanh (nay là địa bàn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Kiên Giang). Ở chức vụ này, ông đã có công lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất Tây Nam. Các công trình lớn của ông để lại cho đời sau là:

Đắp lộ Núi Sam - Châu Đốc, dài 5 cây số trong năm 1826 - 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Đoạn nằm trong nội ô thị xã Châu Đốc hiện nay vẫn còn mang tên Ông.
Đào kinh Thoại Hà dài hơn 30.000m ở núi Sập (Thoại Sơn) vào năm 1818 với khoảng 1.500 nhân công. Triều đình đã lấy tên Ông để đặt cho tên núi, tên sông.
Đào kinh Vĩnh Tế dài theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc - Hà Tiên nối lưu thông sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan, dài hơn 90 cây số, huy động trên 80.000 nhân công thực hiện từ năm 1819 - 1824. Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Vĩnh Tế (?-1826) (hay Châu Vĩnh Tế, Châu Thị Tế), là người gốc Khơme (Miên), là người đóng góp nhiều công sức trong việc tổ chức khai khẩn và đào kênh. Bà cũng được vua Minh Mạng phong là Nhất phẩm Phu nhân.
Những công trình trên được xem là cơ sở kinh tế để người Việt đặt chủ quyền lâu trên vùng đất mới này. Ngoài những sắc phong của triều đình nhà Nguyễn và các văn bia Thoại Sơn, Vĩnh Tế Sơn, còn có bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm 1828 nhằm kỷ niệm ngày hoàn thành con lộ Châu Đốc - Núi Sam, ngày nay không còn nữa nhưng văn bia văn còn ghi trong sử sách.

Ngoài bà Vĩnh Tế, ông còn người vợ thứ là Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt (?-1821).

Lăng mộ của Thoại Ngọc hầu và nhị vị phu nhân được xây dựng đối diện với điện thờ bà chúa xứ núi Sam. Khu vực này được nhà nước Việt Nam xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia và được xem là một trong những địa điểm du lịch hành hương lớn trong cả nước
Nearby cities:
Coordinates:   10°32'1"N   104°48'42"E

Comments

  • T.tùng -từ ngồn widipedia (guest)
    Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829), một danh tướng của triều Nguyễn. Ông sinh ngày 25 tháng 11 năm 1761 tại Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, được phong tước Ngọc Hầu và mất ngày 6 tháng 6 năm 1829. Ông là người đã chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà... để phát triển nông nghiệp và mở đường từ Châu Đốc đi núi Sam, Châu Đốc đi Lò Gò và Sóc Trăng. Ông có công lớn trong việc mở mang khai phá nhiều vùng đất phía Tây Nam Việt Nam. Từ nguyên quán ở Quảng Nam, do loạn lạc nên gia đình ông di trú vào Nam tại cù lao Dài trên sông Cổ Chiên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long. Do công phò tá Gia Long, ông dần được thăng chức đến Trấn thủ Vĩnh Thanh (nay là địa bàn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Kiên Giang). Ở chức vụ này, ông đã có công lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất Tây Nam. Các công trình lớn của ông để lại cho đời sau là: Đắp lộ Núi Sam - Châu Đốc, dài 5 cây số trong năm 1826 - 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Đoạn nằm trong nội ô thị xã Châu Đốc hiện nay vẫn còn mang tên Ông. Đào kinh Thoại Hà dài hơn 30.000m ở núi Sập (Thoại Sơn) vào năm 1818 với khoảng 1.500 nhân công. Triều đình đã lấy tên Ông để đặt cho tên núi, tên sông. Đào kinh Vĩnh Tế dài theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc - Hà Tiên nối lưu thông sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan, dài hơn 90 cây số, huy động trên 80.000 nhân công thực hiện từ năm 1819 - 1824. Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Vĩnh Tế (?-1826) (hay Châu Vĩnh Tế, Châu Thị Tế), là người gốc Khơme (Miên), là người đóng góp nhiều công sức trong việc tổ chức khai khẩn và đào kênh. Bà cũng được vua Minh Mạng phong là Nhất phẩm Phu nhân. Những công trình trên được xem là cơ sở kinh tế để người Việt đặt chủ quyền lâu trên vùng đất mới này. Ngoài những sắc phong của triều đình nhà Nguyễn và các văn bia Thoại Sơn, Vĩnh Tế Sơn, còn có bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm 1828 nhằm kỷ niệm ngày hoàn thành con lộ Châu Đốc - Núi Sam, ngày nay không còn nữa nhưng văn bia văn còn ghi trong sử sách. Ngoài bà Vĩnh Tế, ông còn người vợ thứ là Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt (?-1821). Lăng mộ của Thoại Ngọc hầu và nhị vị phu nhân được xây dựng đối diện với điện thờ bà chúa xứ núi Sam. Khu vực này được nhà nước Việt Nam xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia và được xem là một trong những địa điểm du lịch hành hương lớn trong cả nước
This article was last modified 16 years ago