Di tích sân bay Tà Cơn (Khu vực Khe Sanh)
Vietnam /
Khu Bon Cu /
Dong Ha /
Khu vực Khe Sanh
World
/ Vietnam
/ Khu Bon Cu
/ Dong Ha
Sviets / Việt Nam / / /
sân bay, Tàn tích
Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh còn được gọi là "Chiến dịch Đường 9" hay "Trận Khe Sanh", là một trận chiến giữa một bên là trung đoàn 26, sau đấy tăng cường thêm tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và tiểu đoàn 37 Biệt động quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam VN) với 2 đến 3 sư đoàn của Quân Đội Nhân dân Việt Nam. Theo Hoa Kì trận đánh diễn ra trong suốt 77 ngày từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1968. Tuy nhiên đối với QDNDVN thì đây chỉ là giai đoạn 1 của chiến dịch, giai đoạn 2 kéo dài từ 9-4 đến 25-7, tổng cộng 2 giai đoạn kéo dài 170 ngày, kết thúc khi lính Mĩ cuối cùng rút khỏi Khe Sanh, đánh dấu sự cáo chung của kế hoạch mở rộng Hàng rào điện tử McNamara[13].
vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_%C4%90...
Đây là một trong những trận chiến ác liệt và được bàn thảo nhiều nhất. Chỉ huy căn cứ Khe Sanh lúc đó là đại tá Lownds (TQLC/HK), gồm có 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn TQLC và sau đó nhận thêm tiểu đoàn 37 Biệt động quân Việt Nam nâng tổng số quân tham chiến lên đến 6000 người vào cuối tháng giêng.
Mục đích chủ yếu của QĐNDVN khi tấn công Khe Sanh là nhằm "nghi binh" cho các hướng tiến công chính trong Chiến dịch Mậu Thân 1968 nhằm:
- Vị trí đặc biệt quan trọng của Khe Sanh giống như "cái mỏ neo" trong bản đồ quân sự của Mỹ, đặc biệt là uy hiếp đường Hồ Chí Minh và bảo vệ vùng I chiến thuật. Đây là trung tâm chỉ huy của Hàng rào điện tử McNamara mà Mĩ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh.
- Tập trung đánh và bao vây nhằm thu hút 1 lực lượng lớn quân Mĩ tham chiến, thu hút cả nước Mỹ hồi hộp theo dõi trận "Điện Biên Phủ thứ 2" có thể thay đổi cuộc chiến Việt Nam.
Từ năm 1962, quân Mỹ và quân Sài Gòn xây một căn cứ không quân - lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển Đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Năm 1962, căn cứ này được Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Lào. Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn cho sự tiếp vận từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Sau thất bại trong mùa khô 1965 -1966, Mc Namara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nảy ra ý định thiết lập một phòng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ nam sông Bến Hải để ngăn chặn đối phương. Ý tưởng của Mc Namara đã được 47 nhà khoa học tài ba nhất nước Mỹ tổ chức nghiên cứu thực thi. Sau ba tháng nghiên cứu, hội đồng khoa học dưới sự điều khiển của Mc Namara đã vạch ra một kế hoạch với tham vọng lớn:
- Phòng tuyến ước tính có chiều rộng khoảng 20km, từ nam vĩ tuyến 17 đến đường 9, chiều dài trên 100km chạy song song với sông Bến Hải từ biển Đông đến Sê Pôn (Lào) trong đó hành lang mặt bằng xây dựng có bề ngang 500m sẽ được san bằng như một sân bóng.
- Xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ khoảng 2 km có 1 tháp canh khoảng 4 km có 1 căn cứ cỡ đại đội hoặc tiểu đoàn.
- Bố trí một hệ thống công sự gồm đủ hầm hào, lô cốt kiên cố, hàng chục lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt, xen kẽ với nhiều lớp bom mìn đủ kiểu: mìn định hướng, mìn đĩa, mìn lá, mìn clây-mo, mìn chiếu sáng, lựu đạn nổ tức thì (Mỹ dự kiến sử dụng 20 triệu quả mìn và 25 triệu quả bom cỡ nhỏ). Đặc biệt phòng tuyến được trang bị phương tiện điện tử tối tân như "cây nhiệt đới", “máy thông minh", “máy phát hiện hơi người". Đây là các loại máy thu phát tiếng động tinh vi đủ cỡ 15 ngày, 3 tháng, hoặc 6 tháng thay pin một lần.
Căn cứ Khe Sanh được xác định là trung tâm của hệ thống hàng rào điện tử trên. Do đó, Khe Sanh- Quảng Trị được Mỹ xây dựng một tập đoàn phòng ngự mạnh, liên hoàn, kiên cố nhất của Mỹ ở địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm Làng Vây, Chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn.
Cụm cứ điểm Tà Cơn là cái lõi của tập đoàn phòng ngự Khe Sanh của Mỹ, có chiều dài khoảng 5 km, rộng khoảng 3 km, có một đường băng dã chiến dài khoảng hơn 3.000 m đảm bảo hoạt động của máy bay C-130 và một số trực thăng vũ trang. Hệ thống công sự, vật cản được xây dựng kiên cố và liên hoàn; công sự chiến đấu bằng bê tông đúc sẵn, hố chiến đấu cá nhân có nắp bằng bao cát, một số lô cốt bằng bê tông, hầm ngầm, hệ thống giao thông hào, chiến hào liên hoàn; xung quanh bao bọc từ 6 đến 10 hàng rào giây thép gai các loại, các bãi mìn dày đặc, xen kẽ rải cây nhiệt đới (loại thu tin điện tử) khắp các nơi.
[sửa] Kế hoạch của hai bên
[sửa] Hoa Kỳ
Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng Wesmoreland, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân địch vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (1-11-1967/31-3-1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Mỹ và Sài Gòn, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử McNamara và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Giải phóng, để dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.
Cả Nhà Trắng, Lầu Năm góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho Tổng thống Johnson dày hàng chục trang). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ, mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ Chiến dịch Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà Trắng), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của hải quân, không lực của thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zero (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm.
Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to: “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.
[sửa] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Qua nghiên cứu tình hình cách bố trí lực lượng cuối năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng VNDCCH đã vạch ra kế hoạch chiến lược năm 1968 là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu hút, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch mà chiến trường chính là hướng Đường 9 - Khe Sanh, thực hiện cuộc tiến công đồng loạt vào thành phố, thị xã kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng mở đầu cho một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh sẽ thực hiện nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch (chủ yếu là lính Mỹ), góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược trên, ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Theo quyết định trên, Thiếu tướng Trần Quý Hai Phó tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy mặt trận.
Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra nghị quyết chỉ rõ: Trong Xuân - Hè năm 1968, toàn mặt trận phải quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện thì phá vỡ một phần hệ thống phòng ngự của địch ở đường 9 và phát triển vào Trị - Thiên - Huế. Thu hút, giam chân, tiêu diệt lực lượng Mỹ - ngụy ra đường 9 càng nhiều càng tốt.
[sửa] Binh lực các bên
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Các sư đoàn bộ binh 304, 320, 324B và 325 (từ tháng 5, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 vào thay cho các sư đoàn 324B và 325 đi chiến trường khác), Trung đoàn 270 (Vĩnh Linh) và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 đoàn và 5 đại đội đặc công, 5 trung đoàn pháo binh (16, 45, 84 và 204), 3 trung đoàn pháo phòng không, 1 tiểu đoàn tăng - thiết giáp, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn hoá học, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá.
Tổng cộng lực lượng trên toàn tuyến có khoảng 40 ngàn quân. Trong đó 2 Sư đoàn 204 và sư đoàn 325 (tổng cộng khoảng 17.000 quân) thực hiện bao vây Khe Sanh, còn các sư đoàn 320 và 324 thực hiện cắt đường 9, chặn quân tiếp viện của Mỹ. Các lực lượng vũ trang địa phương thực hiện đánh tập kích diệt các đoàn vận tải, tiêu hao sinh lực địch
Quân đội Hoa Kỳ
Có khoảng 45.000 quân trên toàn tuyến (trong đó có 28.000 quân Mỹ),gồm 3 trung đoàn tăng cường thuộc Sư đoàn thủy quân lục chiến 3; 4 tiểu đoàn tàu tuần tra và vận tải (5, 10, 53 và 301), 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới, trong quá trình phòng ngự được sự chi viện mạnh của không quân, pháo binh ở phía sau.
Riêng ở Khe Sanh, Mỹ có 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 26, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 9 TQLC Mỹ, Sở chỉ huy chiến dịch lưu động - FOB-3 của Lục quân Mỹ (588 lính), 1 tiểu đoàn pháo 155 ly, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội chống tăng, Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH, 1 đội thám báo 300 lính, tổng cộng 6.680 lính.
Từ tháng 4 khi Mỹ mở Chiến dịch Pegasus huy động thêm Sư đoàn kỵ binh không vận 1 của Mỹ, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 26 TQLC Mĩ, Chiến đoàn dù 3 VNCH cùng nhiều đơn vị biệt động quân và bảo an, tổng cộng 20.000 quân yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo.
Bên cạnh đó, Chiến dịch Niagra và Chiến dịch Arc Light để hỗ trợ không quân cho Khe Sanh cũng thu hút một lực lượng hùng hậu: 3.300 trực thăng (nhiều hơn số trực thăng chiến đấu của 3 nước Anh, Pháp, Đức cộng lại), không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút hơn 110.000 tấn bom các loại (gấp 6 lần quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và bằng lượng bom ném xuống Nhật suốt cả năm 1945).
Bảo đảm kỹ thuật - hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MediVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô khổng lồ trên các máy bay trọng tải lớn C-130. Mỹ có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày (trong khi Pháp chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn). Từ 19 đến 25 tháng Giêng, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals cũng được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ.
Quân đội Hoa Kỳ ở Khe Sanh được yểm trợ hỏa lực bởi những vũ khí tân kỳ nhất thời đó. Các tổ hợp ra-đa phản pháo mới như SKY SPOT; 16 bộ pháo tự hành trên xe xích “Vua Chiến trường” 175mm bố trí tại trại Carol ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh Rockpile, 18 lựu pháo 105mm, 8 lựu pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105mm COFAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống bộ binh…
[sửa] Diễn biến
Quân đội Nhân dân Việt Nam chia chiến dịch ra làm 4 giai đoạn:
Chiến dịch diễn ra 4 đợt:
* Đợt 1 (20/1-7/2), Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến công quận lỵ Hướng Hoá và cứ điểm Huội San (xem trận Huội San, 24-1-1968), diệt cứ điểm Làng Vây (xem trận Làng Vây, 6-7/2/1968), làm chủ đoạn đường 9 từ Cà Lu đến biên giới Việt - Lào.
* Đợt 2 (8/2-31/3): phát triển lên vây lấn và pháo kích căn cứ Khe Sanh suốt 50 ngày đêm; bao vây Cồn Tiên, đánh một số trận ở hướng Đông Quốc lộ 1.
* Đợt 3 (1-30/4): đánh quân Mỹ ứng cứu trong chiến dịch Pegasus, giải toả, giữ vững các khu vực làng Khoai, Cu Bốc, các điểm cao 689 và 622, triệt phá giao thông trên đường 9.
* Đợt 4 (8/5-15/7), khôi phục thế vây lấn Tà Cơn, đánh quân Mỹ rút chạy khỏi Khe Sanh.
[sửa] Đợt 1
Trận đánh mở màn nổ ra ngày 20 tháng 1/1968, xảy ra trên Đồi 881-Nam (Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội K. Rạng sáng 20-1, Đại đội I/3/26 TQLC Mỹ bị QĐNDVN phục kích ở gần 881 Nam, chỉ trong ít phút đã có hơn 15 lính Mỹ chết, 21 bị thương và 19 mất tích (ngày hôm sau tìm thấy xác). Các căn cứ hỏa lực Mỹ quanh vùng đáp trả, bom Napalm từ phi cơ không yểm ném xuống ngăn cản được đợt xung phong của QĐNDVN. Toán TQLC Mỹ bị thiệt hại nặng, phải rút lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam.
Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là "Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc. Cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc với tiểu đoàn 6, trung đoàn 95C QĐNDVN. Quân Mỹ thiệt hại 7 chết và 35 bị thương, QĐNDVN có 15 người chết và 95 bị thương.
Rạng ngày 21 tháng 1/1968, Sư đoàn 325 dùng tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 đánh điểm cao 832 (Mỹ gọi là 861, tây bắc Tà Cơn khoảng 4 km) do đại đội K/3/26 lính thủy đánh bộ Mỹ tổ chức phòng ngự. Mặc dù được hỏa lực pháo binh chi viện nhưng quân Mỹ dựa vào lợi thế điểm cao, có hệ thống công sự trận địa phòng ngự vững chắc, đặc biệt là được cụm pháo Tà Cơn chi viện trực tiếp nên các đợt tấn công tiểu đoàn 6 đều bị đẩy lùi và bị thiệt hại lớn, 20 người chết, 68 bị thương. Quân Mỹ có 4 chết và 11 bị thương.
Đêm ngày 20 rạng ngày 21 tháng 1, pháo binh chiến dịch và của Sư đoàn 304 phát hỏa. Đòn tiến công bất ngờ kéo dài với uy lực mạnh đánh vào nhiều mục tiêu quan trọng của địch ở Khe Sanh đã “khoan" nhiều hố trên đường băng, làm cháy kho đạn 1.500 tấn, phá một máy bay lên thẳng [14]. Mô tả cảnh tượng trên, nhà báo Mỹ Micheal Mclair viết: “Rạng sáng ngày 21 tháng 1 năm 1968, pháo tầm xa của Bắc Việt Nam mở màn cuộc bao vây ở Khe Sanh với sự chính xác tai hại, 300 quả đạn đã làm 18 lính Mỹ chết, 40 bị thương, những quả đạn pháo ấy như rơi ngay vào Oa-sinh-tơn”[15]
Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình Khe Sanh nguy ngập bởi kho đạn 1.500 tấn, chiếm phần lớn dự trữ đã bị phá hủy. Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ cùng máy bay vận tải chở đạn dược khẩn cấp đến tăng cường cho Khe Sanh.
Tiếp tục thực hiện ý định chiến dịch, ngày 23 tháng 1, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh hạ lệnh tiến công tiêu diệt cứ điểm Huội San nằm sát biên giới Việt - Lào. Huội San là khu vực phòng ngự của quân Hoàng gia Lào (6 đại đội) và một số trung đội dân vệ, tổ chức thành 12 cứ điểm nhỏ, trung tâm là cứ điểm Tà Mây. Để đảm bảo đánh chắc thắng, ngoài lực lượng Trung đoàn 24 Sư đoàn 304, Bộ tư lệnh đã tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng lội nước (11 xe PT-76) 1 đại đội công binh, một số trung đội địa phương và một số cán bộ địch vận của Quân giải phóng Lào.
19 giờ ngày 23 tháng 1, khi hỏa lực pháo binh bắn chuẩn bị, các mũi tiến công của bộ binh và xe tăng QĐNDVN bắt đầu xuất phát xung phong. Được xe tăng chi viện, các mũi tiến công của bộ binh nhanh chóng vượt qua cửa mở, tiến vào tung thâm, chia cắt địch, diệt sở chỉ huy, chiếm các mục tiêu và dập tắt mọi sự chống cự của quân Hoàng gia Lào. 8 giờ sáng cùng ngày, QĐNDVN đã làm chủ căn cứ Tà Mây cùng hệ thống phòng ngự Huội San. Phần lớn hơn 1.000 quân Lào chốt giữ ở đây đều bị tiêu diệt và bị bắt, chỉ một bộ phận nhỏ (khoảng 350 lính) chạy thoát về Làng Vây. QĐNDVN chỉ bị thiệt hại nhẹ với 29 chết và 54 bị thương.[16]
Đêm ngày 23 tháng 1, Sư đoàn 320 lệnh cho tiểu đoàn 1 Trung đoàn 64 cùng các tiểu đoàn 14 (pháo, cối mang vác) và 16 khẩu súng máy cao xạ 12,7 ly... cơ động triển khai xây dựng hệ thống công sự trận địa ở Động Mã; lệnh cho tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 vào bố trí ở đông nam Cù Đinh (điểm cao 182) sẵn sàng đánh địch ra ứng cứu đường 9. Qua 4 ngày chiến đấu quyết liệt (23 đến 28 tháng 1), tổn thất 97 người hy sinh, tiểu đoàn 7 và 8 Trung đoàn 64 đã phá hủy 10 xe quân sự (có 2 xe tăng), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 quân Mỹ, hoàn thành được nhiệm vụ cắt đứt đường 9, tạo điều kiện thuận lợi cho các Sư đoàn 304 và 325 siết chặt vòng vây ở Khe Sanh.
Cùng với các đòn tiến công trên bộ, trong các ngày 20, 21, 22 tháng 1 năm 1968, Đoàn 126 đặc công Hải quân có sự phối hợp chiến đấu của tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh và du kích huyện Do Linh đã liên tiếp đánh chìm 6 tàu LCU trên cảng Đông Hà và đoạn sông làng Xuân Khánh. Tiếp đó, trong 3 ngày 26, 27 và 28 tháng 1, đặc công Hải quân Đoàn 126 lại dùng thủy lôi diệt thêm 3 tàu LCU chở đầy hàng hóa quân sự của Mỹ từ Đà Nẵng qua Cửa Việt lên Đông Hà. 9 giờ sáng ngày 8 tháng 2, đặc công Hải quân Đoàn 126 lại phục kích đoàn tàu vận tải Mỹ, đánh chìm 4 tàu LCU cùng hàng ngàn tấn đạn dược.
Thắng lợi bước đầu trong việc phong tỏa cảng sông Cửa Việt đã góp phần quan trọng cho cho việc cô lập quân Mỹ trên hướng chủ yếu Khe Sanh.
Sau khi tiêu diệt các căn cứ Hướng Hóa, Huội San, đánh thiệt hại lực lượng Mỹ trên đường 9 và chi khu Cam Lộ, Bộ Tổng Tham mưu đã gửi công điện khẩn cho Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị: "Phải diệt căn cứ Làng Vây trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác chiến chung với toàn Miền”.
Để đánh chắc thắng Làng Vây, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương dùng một lực lượng mạnh áp đảo gồm Trung đoàn 24 Sư đoàn bộ binh 304, tiểu đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 325, Trung đoàn công binh 7 (thiếu), 2 đại đội xe tăng với 14 xe, 2 đại đội đặc công. Đến 3 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2, cả ba hướng đã cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm được các mục tiêu theo phân công. Đến 10 giờ trưa ngày 7 tháng 2, trận Làng Vây kết thúc, hơn 900 quân đồn trú chỉ có 255 thoát về được Khe Sanh (trong đó có 75 bị thương). QĐNDVN diệt gọn một cứ điểm quan trọng án ngữ trên đường 9, đẩy cụm cứ điểm Tà Cơn vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh.
Sức ép của Quân giải phóng ở Đường 9 - Khe Sanh ngày càng tăng đã làm cho bộ chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam thực sự lo ngại. Tướng Westmoreland đã từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để gặp các tướng lĩnh chỉ huy các sư đoàn lính thủy đánh bộ và lục quân vùng 1 chiến thuật bàn cách đối phó. Cùng với việc tăng quân, Mỹ thiết lập một Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACVFOARD) tại Phú Bài để điều khiển lực lượng đánh trả các cuộc tiến công của Quân giải phóng trên đường 9 - Khe Sanh. Vì vậy số lượng quân chiến đấu của Mỹ ở đây đã lên tới 43 tiểu đoàn chủ lực (25 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu đoàn quân Sài Gòn) với tổng quân số 69.490 lính (trong đó có 40.800 Mỹ).
Đến đây, Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đã hoàn thành được nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Giai đoạn 1 chiến dịch đến đây cũng kết thúc
[sửa] Đợt 2
Sau các trận đánh ở Động Trị, Huội San, Hướng Hóa, Cam Lộ... thất bại ở Làng Vây đã đẩy cụm cứ điểm Khe Sanh của Mỹ vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh. Để bảo vệ Khe Sanh, ngoài lực lượng hỏa lực bố trí trong căn cứ, Mỹ còn dùng pháo binh hỗn hợp cùng máy bay các loại kể cả B-52 chi viện tối đa (có ngày pháo binh bắn tới 15.000 quả, máy bay chiến thuật oanh tạc tới 300 lần xung quanh căn cứ mỗi ngày).
Ngày 8 tháng 2, để đảm bảo cho việc phục vụ vây lấn ở hướng tây chắc chắn thắng lợi, Bộ chỉ huy Mặt trận đã điện cho Sư đoàn 304, Sư đoàn 325 phải thực hiện tốt việc nhanh chóng chuẩn bị chu đáo mọi yếu tố cần thiết để đưa lực lượng vào thực hành vây lấn ngay. Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận, bằng sự nỗ lực rất cao của mỗi chiến sĩ, đến ngày 10 tháng 2 năm 1968, hai Trung đoàn 9, 66 Sư đoàn 304, các trung đoàn 95c và 101D thuộc Sư đoàn 325C cùng bộ đội địa phương Hướng Hóa đã xây dựng được 13 trận địa vây lấn bao quanh căn cứ Khe Sanh. Chiến thuật vây lấn từng làm nên trận Điện Biên Phủ sẽ được sử dụng.
Vì cụm cứ điểm Khe Sanh là một cụm phòng ngự mạnh, kiên cố, vững chắc nhất của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, do đó QĐNDVN chủ trương "Diệt một số cứ điểm ngoại vi sau đó vây ép chặt buộc địch ra giải tỏa, để ta đánh địch ngoài công sự, vừa diệt được nhiều địch, lại giảm thương vong của ta". Ngay ngày 9 tháng 2, một trận kịch chiến xảy ra trên Đồi 64 giữa quân Mỹ được trực thăng và phi cơ yểm trợ với 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 101D, quân Mỹ có 26 lính tử trận và 27 bị thương. QĐNDVN chịu thương vong 58 chết và 71 bị thương, song đã giữ được trận địa.
Cố vấn Walt W. Rostow trình bày cho Lyndon B. Johnson trên sa bàn Khe Sanh, 15-2-1968
Trung đoàn 9 vào vây lấn trực tiếp trên 2 hướng: đông đông nam và tây tây nam, 2 trung đoàn 95 và 101D/F325 vây xa trên các cao điểm phía bắc: 845, 852, 550. Chỉ trong thời gian ngắn trận địa vây lấn đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh: Có hệ thống công sự chiến đấu có nắp, hệ thống chiến hào, giao thông hào liên hoàn; trung đoàn còn huy động các lực lượng của đơn vị đào được 2 giao thông hào dài 5 km nối liền từ các trận địa chốt với phía sau nam đường 9. Hệ thống hỏa lực được bố trí chặt chẽ có thể khống chế được sân bay, đồng thời một số tổ bắn tỉa có kính ngắm hồng ngoại đã vào sát hàng rào xây dựng công sự chiến đấu, cả ngày và đêm. Ngoài các loại hỏa lực bản thân, khi xảy ra tác chiến trung đoàn còn được các cụm pháo của sư đoàn và mặt trận chi viện trực tiếp.
Sau khi xây dựng được trận địa tương đối hoàn chỉnh, các trận địa chốt và hỏa lực cối, 12,7 ly bắt đầu khống chế sân bay làm cho máy bay Mỹ xuống tiếp tế gặp khó khăn, hoạt động đi lại của quân Mỹ trong căn cứ cũng bị khống chế, một số đã bị bắn tỉa tiêu diệt. Đồng thời các mũi lấn dũi cũng ngày càng phát triển sâu vào áp sát các cứ điểm, có mũi đã lấn dũi qua hàng rào thứ 2, 3 của Mỹ.
Ngày 11-2, một tin xấu đến với hệ thống vận tải chi viện cho Khe Sanh của Mỹ. Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh thì 1 đã nổ tung vì trúng đạn pháo kích, toàn bộ 6 phi công thiệt mạng. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay "khập khễnh" về phi trường Đà Nẵng. Từ đó về sau, các máy bay vận tải của Mỹ không còn dám đáp xuống đường băng mà phải sử dụng cách bay sát đường băng rồi đẩy hàng có buộc dù qua cửa sau bụng phi cơ, dù cách này sẽ khiến một lượng lớn hàng hóa bị hư hỏng khi tiếp đất.
Super Gaggle: Trực thăng CH-46 Sea Knight chở hàng tiếp tế (trên) và A-4 Skyhawk hỗ trợ không kích
Việc tiếp vận cho các ngọn đồi quanh lòng chảo cũng có ý nghĩa sống còn với Mỹ, bởi nếu mất các ngọn đồi này thì pháo binh QĐNDVN sẽ có thể bắn trực xạ vào căn cứ với độ chính xác rất cao. Mỹ phải huy động hàng trăm trực thăng mỗi ngày để tiếp tế cho các ngọn đồi này. Thậm chí việc tắm rửa của lính Mỹ cũng bằng nước thả xuống từ trực thăng. Một sỹ quan QĐNDVN đã viết trong hồi ký: "Chúng tôi vượt hàng trăm cây số đường rừng chỉ với 1 bi-đông nước, trong khi lính Mỹ dùng tới cả trực thăng chỉ để tắm giặt. Khi thấy cảnh này, tôi tin chắc nếu kiên trì, chúng tôi sẽ chiến thắng cuộc chiến này".
Nắm được quy luật hoạt động của trực thăng, QĐNDVN bố trí các khẩ đội súng máy 12,7 ly ngụy trang kĩ để đón lõng trực thăng Mỹ khi thả hàng. Chỉ trong 2 tuần đã có hàng chục trực thăng Mỹ bị hạ. Không quân Mỹ phải bố trí các phi vụ ném bom yểm trợ cho đội trực thăng thì thiệt hại mới giảm đi.
Để đẩy lùi lực lượng QĐNDVN ra khỏi Khe Sanh, Mỹ đã sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân không hạn chế. Tính từ ngày 21 tháng 1 đến ngày 3 tháng 3 năm 1968, không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút hơn 100.000 tấn bom các loại, đồng thời pháo binh từ Khe Sanh, trại Carol và Rockpile bắn 150.000 quả đạn tạo nên những trận bão lửa dữ dội trên khắp khu vực Khe Sanh.
Đối phó với hỏa lực cực mạnh của Mỹ, QĐNDVN đã dùng thứ vũ khí thô sơ nhưng hiệu quả nhất: các chiến hào, vốn từng được kiểm nghiệm qua trận Điện Biên Phủ. Theo tính toán của Mỹ, cần tới 1000 viên đạn pháo chỉ để phá hủy 30 mét đường hào cùng một vài binh sĩ trong đó. Tuy nhiên trước hỏa lực áp đảo và sức đánh phá dữ dội, thương vong của QĐNDVN cũng tăng dần. Mỗi ngày phải sửa, đào mới 40-50% chiến hào, ngày cao điểm đánh phá có hướng, mũi phải sửa chữa đến 70% công sự trận địa. Cùng với thiệt hại về công sự, vật chất kỹ thuật, số lượng cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh lên tới gần 200 người mỗi tuần.
Thấy dùng không quân và pháo binh không ngăn được phát triển của các mũi vây lấn, Mỹ phải đưa lực lượng trong căn cứ ra thực hành phản kích hòng đẩy lùi các mũi lấn dũi ra xa và chiếm lại một số chốt. Nhiều cuộc chiến đấu diễn ra cực kỳ ác liệt. Ví dụ như cuộc giao tranh ngày 25-2, 1 trung đội thuộc đại đội B/1/26 của Mỹ mất gần hết quân số với 5 lính chết, 17 bị thương, 25 mất tích và 1 bị bắt.
Kết hợp với vây lấn, pháo binh QĐNDVN liên tục pháo kích tiêu hao sinh lực của quân Mỹ. Đỉnh điểm là ngày 23-2, pháo kích làm nổ tung 1 kho đạn, khiến 12 lính Mỹ chết và 51 bị thương.[17]
Sau 2 tháng bị vây, số phận của hơn 6.000 lính Mỹ trong căn cứ Khe Sanh vô cùng khốn đốn; nhưng trên toàn chiến trường miền Nam nhiều nơi đang diễn ra những cuộc đọ sức quyết liệt, nên Mỹ vẫn chưa thể đưa quân giải tỏa cho Khe Sanh.
Trung tuần tháng 3/1968, bộ chỉ huy QĐNDVN dự kiến "Nếu cuối tháng 3/1968 địch chưa tung quân ra giải tỏa thì ta sẽ đưa lực lượng đánh chiếm một đoạn tiền duyên phòng ngự của địch để tăng sức ép"; nhiệm vụ đánh chiếm tiền duyên được giao cho Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9 chốt ở đông sân bay Tà Cơn. Ngày 22/3/1968, mặt trận quyết định đánh chiếm tiền duyên đông sân bay Tà Cơn. Đúng 23h30 ngày 22/3/1968, lệnh tấn công pháo binh của Sư đoàn và mặt trận bắn vào Sở chỉ huy cụm phòng ngự Tà Cơn và chế áp các trận địa pháo, súng cối và hỏa lực bắn thẳng của Mỹ. Trận đánh diễn ra quyết liệt, tổ bộ phá thương vong gần hết. Nhận thấy việc đánh chiếm tiền duyên khó thành công nên mặt trận và Sư đoàn đã lệnh dừng tấn công, lui vào trận địa chốt củng cố. Quân Mỹ có 8 lính chết và 21 bị thương, QĐNDVN có 57 người chết.
Trận tấn công đánh chiếm một bộ phận tiền duyên ở đông sân bay Tà Cơn tuy chưa thành công nhưng đã tạo sức ép ghê gớm đối với Mỹ, báo chí Mỹ phải kêu lên: "Sống ở Khe Sanh nào khác gì kẻ bị kết án ngồi trên ghế điện" (Tin AP). Để giảm áp lực, ngày 30/3/1968 quân Mỹ tổ chức một cuộc phản kích lớn vào trận địa chốt số 3 của đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 9 với 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ, 2 đại đội quân Sài Gòn và xe tăng, ý định chiếm bằng được chốt, nhưng sau gần 5 giờ chiến đấu liên tục, quân Mỹ phải rút lui với 12 lính chết và 100 bị thương. Đây là trận phản kích cuối cùng của quân Mỹ trong căn cứ.
Đến lúc này cả Tổng thống Johnson và Quốc hội Mỹ đều lo cho gần 6.000 quân Mỹ đang chết dần chết mòn ở Khe Sanh; cả thế giới cũng hồi hộp theo dõi diễn biến chiến sự tại Khe Sanh. Trước nguy cơ Khe Sanh bị tiêu diệt như Điện Biên Phủ, cuối cùng Tổng thống Johnson phải quyết định điều một lực lượng thật mạnh cứu nguy cho Khe Sanh. Giai đoạn 2 chiến dịch kết thúc chuyển sang giai đoạn 3.
[sửa] Đợt 3
Ngày 1/4/1968 chiến dịch giải tỏa cho Khe Sanh bắt đầu. Sư đoàn không vận số 1 - lực lượng cơ động mạnh nhất, được tung vào Khe Sanh. Sư đoàn gồm 3 lữ đoàn, mỗi lữ đoàn có 3 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có từ 800 đến 1000 quân; 1 tiểu đoàn trinh sát không kỵ; 1 tiểu đoàn trực thăng vũ trang; 3 tiểu đoàn pháo 105 ly; 2 đại đội pháo sáng; 1 đại đội máy bay vận tải có tổng cộng 439 máy bay trực thăng và một số máy bay vận tải. Ngoài ra, còn có chiến đoàn dù số 3 quân đội Sài Gòn và 1 tiểu đoàn pháo 105 ly cùng tham gia.
Với tổng biên chế 15.787 người, 434 máy bay (chủ yếu là trực thăng), 1.600 xe các loại, 54 khẩu pháo 105 ly, 87 dàn rốc-két với 1.872 ống phóng cỡ 70 ly lắp đặt trên trực thăng vũ trang, sư đoàn kỵ binh 1 có một khả năng cơ động và hỏa lực mà không một đơn vị nào khác trên thế giới có được.
Ngay sau khi Mỹ mở cuộc hành quân Pegasus (Ngựa bay) giải tỏa cho Khe Sanh, Bộ Tư lệnh QĐNDVN điều động thêm Sư đoàn 308 vào tham gia chiến đấu thay Sư đoàn 304 tại chiến trường Khe Sanh.
Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1968, không quân Mỹ đã sử dụng 15 lần chiếc B-52 rải bom dọc hai bên trục đường 9, tiếp đó các máy bay trực thăng đổ 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận xuống Bồng Nho, Động Tro và Úc Nghi, đổ 1 đại đội pháo binh xuống Khe Sanh. Cùng với đường không, trong ngày Mỹ còn cho 147 lần chiếc xe vận tải chuyển đồ dùng quân sự và đạn dược từ Tân Lâm đến Cà Lu. Ngày 2/4/1968, B-52 oanh tạc đông nam Khe Sanh, 14h30 trực thăng đổ 1 tiểu đoàn quân Mỹ xuống đông làng Cát và 1 tiểu đoàn xuống Cà Lu. Sau khi được thả xuống bãi đáp, tiểu đoàn 1/5 KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đã đụng độ với một Tiểu Đoàn QĐNDVN đang phòng thủ tại đây, TĐ 1/5 KBKV bị thiệt hại nặng, Trung Tá Runkle Tiểu đoàn Trưởng thiệt mạng. TĐ 2/5 KBKV được lệnh vào thay thế nhưng QĐNDVN đã rút lui.
Ngày 3 tháng 4, quân Mỹ tiếp tục cho 200 lần chiếc trực thăng đổ lữ 1 kỵ binh không vận Mỹ xuống Pa Ka, Làng Con, điểm cao 420, Cô Nhôm. Sáng ngày 4 tháng 4 năm 1968, với ý định đánh chiếm bằng được điểm cao 471, khống chế vùng tây nam Tà Cơn, Mỹ dùng hỏa lực pháo binh và không quân bắn phá dữ dội nhiều giờ vào điểm cao và đưa tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 lính thủy đánh bộ Mỹ ra chiếm các mỏm 3, 4, 5 ở động Ché Riêng, nhưng đã bị đại đội 7, tiểu đoàn 2, trung đoàn 9 và 1 phân đội của tiểu đoàn 9, trung đoàn 66 chặn đánh. Trận chiến đấu giằng co kéo dài từ 10 giờ sáng đến 15 giờ chiều vẫn không phân thắng bại, số thương vong của Mỹ đã là 10 chết và 56 bị thương, chỉ huy quân Mỹ quyết định dùng trực thăng đổ một tiểu đoàn kỵ binh không vận xuống mỏm 3 và 4 động Ché Riêng, tiếp tục tổ chức đánh chiếm điểm cao 471.
Sau một ngày chiến đấu ác liệt, QĐNDVN cũng có 16 người tử trận, nhưng ngay trong đêm ngày 5 tháng 4 đã bất ngờ tập kích vào khu trú quân của Mỹ trên mỏm 2 động Ché Riêng khiến 1 lính Mỹ chết và 28 lính bị thương.
Tại hướng khác, tiểu đoàn 3 QĐNDVN đã được lệnh xây dựng chốt ngăn chặn ở làng Khoai, lực lượng bố trí chốt làng Khoai gồm 20 tay súng do Nguyễn Văn Bình - tham mưu trưởng Tiểu đoàn và Bùi Ngoãn, đại đội phó đại đội 11/D3 chỉ huy. Sáng 4/4/1968, sau khi cho pháo binh và trực thăng vũ trang bắn phá hàng giờ đồng hồ vào trận địa chốt làng Khoai, một tiểu đoàn Mỹ chia làm 2 mũi tấn công vào chốt làng Khoai. Trong ngày hôm đó, 5 đợt tấn công của Mỹ đã bẻ gãy, thương vong gần 100 lính; đợt tiến công thứ 3 đại đội phó Bùi Ngoãn bị thương gãy chân đã yêu cầu 1 chiến sĩ dùng lưỡi lê cắt chân bị gãy để tiếp tục chỉ huy chiến đấu và đã hy sinh tại trận địa (kết thúc chiến dịch, Bùi Ngoãn được đề nghị tuyên dương Anh hùng LLVTND và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba).
Sau 1 ngày chiến đấu, 20 tay súng đã bị thưong vong mất 10 người, trận địa bị phá hoại một phần nên chiều hôm đó QĐNDVN lui về tuyến 2 chốt giữ. Chốt làng Khoai còn chiến đấu liên tục đến ngày 7/4/1968 thì được lệnh rút sang phía nam để phối hợp với hỏa lực tiếp tục đánh quân Mỹ.
Tiêu biểu nhất trong các trận đánh giành chốt trong các ngày đầu tháng 4 năm 1968 là điểm cao 558, nằm ở phía tây cụm cứ điểm Tà Cơn. Lực lượng QĐNDVN giữ chốt ở đây ngoài 2 tiểu đội bộ binh chiếm giữ ở hai mỏm đồi còn có hai khẩu 12,7 ly và một khẩu cối 60 ly bố trí ở khu vực yên ngựa, có hệ thống hầm hào, công sự trận địa khá vững chắc. Tại chốt 595 diễn ra trận chiến đấu ác liệt suốt 2 ngày 6- 7/4, được gọi là "kỳ tích 1 chống 40". 2 tiểu đội QĐNDVN đã chặn đánh 2 tiểu đoàn Mỹ trong 2 ngày, được ghi nhận tiêu diệt gần 200 lính Mỹ (riêng chiến sĩ Nguyễn Hữu Bào diệt 79 lính Mỹ, cuối chiến dịch được tuyên dương Anh hùng LLVTND). Tài liệu Mỹ cũng xác nhận trong ngày đầu tiên đánh chốt đã có 10 lính Mỹ chết và 47 bị thương.
Tuy nhiên với sức cơ động và hỏa lực áp đảo, quân Mỹ vẫn lấn dần đến Khe Sanh. Ngày 6/4/1968 các đơn vị kỵ binh không vận đã bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ tại đồi 471. Sau đó TĐ 1/9 TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ ngọn đồi 552 rồi đến đồi 681 nhưng không gặp một kháng cự nào.
Song song với nhiệm vụ đánh quân Mỹ hành quân giải tỏa các điểm cao quan trọng xung quanh Khe Sanh và đường 9, Bộ tư lệnh QĐNDVN cho các đơn vị chủ động tổ chức các trận tập kích tiêu diệt các vị trí tiến quân tạm thời của lực lượng kỵ binh không vận Mỹ.
Sáng ngày 5 tháng 4, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 bất ngờ tiến công loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 lính kỵ binh không vận trên điểm cao 400. Sáng ngày 7 tháng 4, chiến đoàn Dù số 3 VNCH đã dùng 132 máy bay lên thẳng từ Nhơn Biều đổ xuống các ngọn đồi phía tây bắc Làng Vây cũ vàtiến hành đổ bộ đợt hai xuống Rồ Cút. Nhưng ngay sau khi đổ quân đã bị pháo tập kích trúng đội hình, hàng chục lính thuộc tiểu đoàn 2 và 6 Dù bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tiểu đoàn 3 và 8 Dù bị Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 bám đánh liên tục, tiêu hao một bộ phận lực lượng và phương tiện, buộc phải co cụm lên điểm cao 400. Đêm ngày 8 tháng 4, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 bất ngờ tập kích diệt thêm một số, trong đó có thiếu tá tham mưu trưởng chiến đoàn dù số 3 là Bùi Văn Thạch cũng tử trận.
Cùng ngày 7-4, ở Đồi 552 và 689, tiểu đoàn 1/9 của TQLC Mỹ cũng bị pháo kích bằng súng cối làm 9 lính Mỹ chết và 27 bị thương.
Để tạo hành lang an toàn, quân Mỹ tiếp tục cho quân đánh nống ra các điểm cao. Ngày 10 tháng 4, tiểu đoàn 6 Dù VNCH được một tiểu đoàn kỵ binh Mỹ yểm trợ chia làm 3 mũi hành quân đánh chiếm Làng Vây cũ. Được pháo binh chi viện, tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 đã liên tục đẩy lùi 3 đợt xung phong vào căn cứ Làng Vây, buộc tiểu đoàn 6 Dù phải lùi về điểm cao 500 (tây bắc Làng Vây). Ngay đêm ngày 11 tháng 4, tiểu đoàn 7 quyết định tiến công điểm cao 500, diệt thêm một đại đội, làm thiệt hại nặng một đại đội khác. Các lực lượng Hoa Kỳ sau đó đã sử dụng tối đa ưu thế của không quân, pháo binh và cả chất độc hoá học khiến Trung đoàn 66 phải rút lui.
Lữ 1 kỵ binh Mỹ sau khi chiếm được Làng Vây cũ đã nhanh chóng đánh chiếm Pa Ka, Làng Con, Làng Trài, Bi Hiên, đẩy được một số đơn vị của QĐNDVN ra xa. Tuy vậy sau một tuần tác chiến ở khu vực Làng Vây, chiến đoàn dù số 3 đã bị thiệt hại tới 40% quân số. Tinh thần quân Dù mất ổn định nghiêm trọng, phải rút về căn cứ ở Huế để củng cố. Cuộc hành quân quân “Lam Sơn 207" của lữ đoàn Dù số 3 đến đây chấm dứt.
Theo tuyên bố của Hoa Kỳ, chiến dịch Ngựa bay kết thúc ngày 8-4 và Khe Sanh đã được giải vây. Tối ngày 14/4/1968, hãng UPI và đài BBC đều công bố: "Cuộc hành quân Pegasus (Ngựa bay) đã chấm dứt". Song thực tế quân Mỹ mới chỉ tạo được một tuyến tiếp vận đến Khe Sanh từ hướng Đông, 3 mặt còn lại của căn cứ vẫn bị vây lỏng, các trận đánh ác liệt vẫn diễn ra và quân Mỹ thường xuyên bị tập kích. Tiêu biểu như ngày 13-4 năm 1968, tại đồi 881 Bắc, lợi dụng lúc Tiểu đoàn 3/26 của TQLC Mỹ tiến công đánh chốt 622 lộ toàn bộ đội hình trên trận địa, tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 đang ém sẵn ở các vị trí có lợi đã bất ngờ xuất quân trên nhiều hướng tiến đánh đội hình Mỹ; loại khỏi vòng chiến đấu 30 lính Mỹ. Ngày 15-4, QĐNDVN tập kích bãi đáp của đại đội A/1/9 ở tây nam đồi 689 và diệt đại đội C và D của Không kỵ Mỹ tới chi viện làm 41 lính Mỹ chết, 32 bị thương và 3 mất tích.
Cùng thời gian trên, trên hướng đông, Sư đoàn 320 cũng tăng cường hoạt động tác chiến. Trung đoàn 64 liên tục tiến công trên đường 9 diệt nhiều xe cơ giới và quân chiến đấu của Mỹ. Nhiều mũi tiến quân của Mỹ nống ra phá thế vây hãm ở khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, An Thái... đã bị Trung đoàn 48 chặn đánh và tiêu hao.
Ngày 21 tháng 4, 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ chia làm nhiều mũi cơ động tiến đánh điểm cao 622. Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 đã bám trụ công sự trận địa vững chắc kết hợp với vận động tiến công quy mô nhỏ trên từng hướng, đánh bại từng mũi tiến công lên điểm cao, đẩy quân Mỹ trở lại Khe Sanh.
Ngày 23 tháng 4, gần 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ Làng Con - Húc Hạ đã mở cuộc hành quân về phía Làng Vây, khi quân Mỹ vừa đổ quân chiếm vị trí xuất phát xung phong đã bị lực lượng cơ động của Sư đoàn 304 chặn đánh quyết liệt, bắn cháy 2 máy bay chở quân, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực... bị đòn phủ đầu thiệt hại lớn về quân số, tổn thương nặng về tinh thần, số còn lại vội rút về Húc Hạ bỏ dở cuộc hành quân.
Trên tuyến đường 9, tiểu đoàn 8 liên tục phục kích đánh các đoàn xe vận tải chở vũ khí trang bị. Ngày 19 tháng 4, diệt 5 xe GMC, 1 xe M-113; ngày 20 tháng 4, loại khỏi vòng chiến đấu 2 trung đội hành quân trên 6 xe chở quân; ngày 21 tháng 4, diệt thêm 108 lính cùng 1 xe tăng và một số xe vận tải.
Cuối tháng 4 năm 1968 quân Mỹ buộc phải kết thúc cuộc hành quân "Ngựa bay" và "Lam Sơn 207” khi ý định giải tỏa Khe Sanh chưa thực hiện được. Tuy vậy, các cuộc hành quân của Mỹ đã đẩy được một số mũi vây lấn ra xa, chiếm được một số khu vực chốt quan trọng ở khu vực xung quanh Khe Sanh, gây thiệt hại nhiều về quân số và trang bị vũ khí kỹ thuật cho đối phương. Nguy cơ Khe Sanh bị tiêu diệt hoàn toàn như ĐIện Biên Phủ đã được tháo gỡ.
Về phí QĐNDVN, sau khi Mỹ kết thúc cuộc hành quân "Ngựa bay", các đơn vị cũng bắt đầu giai đoạn 4: khôi phục thế vây lấn để tạo sức ép buộc Mỹ phải rút bỏ Khe Sanh
[sửa] Đợt 4
Ngày 4 tháng 5, QĐNDVN bất ngờ tập kích điểm cao phòng ngự 552 của Mỹ, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội kỵ binh không vận, một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly và 9 khẩu cối 106,7 ly. Cùng thời gian, ở hướng tây và tây bắc Khe Sanh, Trung đoàn 66 thực hành bao vây kiềm chế các điểm cao 832, 689. Ở hướng đông nam Trung đoàn 9 tiến công áp sát Làng Khoai, tổ chức đánh bại một mũi phản kích của Mỹ, bắn rơi 3 máy bay trực thăng và tiêu diệt, làm bị thương nhiều lính Mỹ.
Trên tuyến đường 9 liên tục trong các ngày 14 và 15 tháng 5, QĐNDVN đã tổ chức một số trận tập kích ở nam Làng Khoai, diệt nhiều xe vận tải và sinh lực, gây khó khăn cho việc tiếp vận cho Khe Sanh của quân đội Mỹ.
Trong khi các Sư đoàn 304 và 308 đẩy mạnh hoạt động ở Tà Cơn, đường 9, Sư đoàn Đồng Bằng cũng vừa chiến đấu tạo thế liên hoàn trên cánh đông vừa nghiên cứu quy luật hoạt động trên sông và cách bố phòng bảo vệ cảng Cửa Việt của, chuẩn bị cho đợt tác chiến đánh tàu trên sông Cửa Việt. Do sự chuẩn bị chu đáo và sử dụng hỏa lực ĐKZ, cối 82 ly, B-40, B-41, trọng liên 12,7 ly... một cách linh hoạt, QĐNDVN đã đánh chìm được nhiều tàu chở hàng của Mỹ trên sông Cửa Việt. Tiêu biểu nhất trong đợt hoạt động tháng 5 của sư đoàn 320 là trận đánh trên khu vực bãi cát Cửa Việt chiều ngày 2 tháng 5, tiểu đoàn 3, tiểu đoàn 6 phối hợp cùng pháo binh và các đơn vị bộ đội địa phương đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 2 trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ.
Bộ chỉ huy sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đã đưa trung đoàn 4 (thiếu 1 tiểu đoàn), tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 tổ chức hành quân giải tỏa Khe Sanh lần thứ 2 với mật danh "Scotland II" để kéo giãn đột hình vây lấn của QĐNDVN, tạo điều kiện cho ý định rút bỏ Khe Sanh. Đến ngày 18, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ đã quyết định "bốc hết lực lượng rải rác ở các điểm cao Kơ Long, Pa Trang, 635... đưa về tăng cường cho đường 9, Nam Tà Cơn và Đông Hà, Cửa Việt". Đây cũng là thời điểm Mỹ kết thúc cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh lần 2 - mang tên "Scotland II" mà không thu được nhiều kết quả. Sau 1 tháng chiến đấu, QĐNDVN ghi nhận đã diệt hơn 1.000 quân Mỹ, 11 máy bay các loại bị phá hủy và bắn rơi, 7 khẩu pháo và cối bị phá hủy, phá hỏng, tiểu đoàn 3 trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ bị đánh thiệt hại nặng.
Cuộc hành quân "Scotland II" kết thúc, lực lượng Mỹ ở Khe Sanh còn lại 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, trong đó một bộ phận rải rác dọc đường 9 để bảo vệ cho tiếp tế Khe Sanh và bảo đảm yểm hộ kịp thời, hiệu quả cho việc rút lui của lính Mỹ ra khỏi Khe Sanh khi cần thiết. Ngày 26 tháng 6, Đại tướng Abram - chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam đã ra lệnh: Rút bỏ Khe Sanh.
Tuy cuộc rút quân được sắp đặt rất bài bản, nhưng nhiều đợt rút quân của Mỹ vẫn bị QĐNDVN phát hiện và tổ chức chặn đánh. Trung đoàn 246 liên tục tổ chức đánh Mỹ rút chạy trên hướng tây, nhưng do lực lượng quá mỏng nên chỉ đánh được nhóm bọc hậu sau cùng, không đánh được vào quân chủ lực nên không phá vỡ được đội hình rút lui. Trên hướng Nam, Trung đoàn 102 đã rút về tuyến sau củng cố, Trung đoàn 88 cũng triển khai lực lượng đón đánh quân Mỹ trên hướng đường 9, nhưng cũng chỉ đánh được bộ phận bảo vệ mà không đánh được đội hình rút quân chính. Riêng lực lượng pháo binh Mặt trận đã tổ chức chặn đánh rất hiệu quả vào sân bay Tà Cơn và chặn đánh trên đường bộ gây cho quân Mỹ nhiều thiệt hại về lực lượng và vũ khí, phương tiện chiến tranh.
Do những hoạt động tích cực của QĐNDVN nên cuộc hành quân rút khỏi Khe Sanh của Mỹ phải kéo dài gần 20 ngày, đến ngày l5 tháng 7 năm 1968 quân Mỹ mới rút hết quân về tập trung ở Cà Lu - Tân Lâm. QĐNDVN đã làm chủ đường 9 đoạn từ Lao Bảo đến sát Cà Lu (trừ cứ điểm Động Trị), giải phóng toàn bộ khu vực Khe Sanh - một địa bàn chiến lược quan trọng ở phía tây đường 9. Quân nhân Mĩ cuối cùng rút khỏi khu vực vào 25 tháng 7, trước đó ngày 9 tháng 7 năm 1968, lá cờ Quân giải phóng đã được cắm trên cột cờ sân bay Tà Cơn.
Trong gần 20 ngày chặn đánh quân Mỹ rút lui, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 đã phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ được ghi nhận đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.333 lính Mỹ, bắn rơi, phá hủy 34 máy bay, 5 khẩu pháo, cối và 5 xe vận tải.
[sửa] Điện Biên Phủ thứ hai
Sở dĩ Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh được mệnh danh là "Trận Điện Biên Phủ thứ hai" vì giữa hai trận đánh này có những điểm tương đồng:
- Thứ nhất, cả Khe Sanh và Điện Biên Phủ đều tiếp giáp với biên giới Việt - Lào. Khe Sanh cách biên giới Việt - Lào chừng 20km, còn Điện Biên Phủ chỉ cách khoảng 8km.
- Điểm tương đồng thứ hai là địa hình đều hiểm trở, khó tiếp cận. Chỉ có thể tiếp cận Điện Biên Phủ bằng đường không. Đối với Khe Sanh, ngoài việc tiếp cận bằng đường không, còn có thêm cách tiếp cận bằng đường bộ thông qua con đường 9.
- Về tính chất của cả hai trận đánh lúc bấy giờ đã trở thành tâm điểm chú ý của báo chí và các cơ quan công luận khác. Đối với quân địch cả hai trận đều có bài học giống nhau, đó là sự thất bại.
Sau khi rút bỏ Khe Sanh, tưởng như mọi việc đã xong, nhưng rồi Nhà Trắng lại chao đảo lần nữa vì Khe Sanh. Ngày 24-6, phóng viên John Carol của tờ Mặt trời Baltimore đã loan tin Bộ chỉ huy Mỹ “vừa buộc phải rút bỏ Khe Sanh, một căn cứ quân sự được (Mỹ) phòng thủ với một giá đắt, do vị trí rào cản có tính sống còn của nó ở dưới khu giới tuyến”. Bộ chỉ huy Mỹ mập mờ phủ định tin này, nhưng John Carol khẳng định “Các thủy quân lục chiến biết việc này, người Bắc Việt Nam biết việc này, chỉ có nhân dân Mỹ là không biết. Mặc dù Bộ chỉ huy Mỹ giải thích việc này (bỏ Khe Sanh) là do những yêu cầu về quân sự đặt ra, nhưng miền Bắc cho đây là thất bại nghiêm trọng nhất cả về chiến thuật lẫn chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh này”.
Theo báo cáo dành cho tổng thống 25 và 26-6-1968, các cố vấn tổng thống đã phải nhanh chóng ra tay. Một là, họ thuyết phục hãng tin Mỹ tầm cỡ toàn cầu AP đừng đưa tin của Mặt trời Baltimore. Hai là, họ đã dự thảo để MACV ra một tuyên cáo. Cốt lõi cho tuyên cáo này là, quân Mỹ phải bỏ Khe Sanh chỉ vì “do địch đã thay đổi chiến thuật”.
Tác động của Mỹ rút bỏ Khe Sanh đối với công luận được Peter Bush đánh giá như sau: “Tướng A-bram ra lệnh giữ bí mật chuyện đóng cửa căn cứ càng lâu càng tốt. Đến khi chuyện này buộc phải công bố chính thức, chỉ một lượng thông tin nhỏ được cung cấp. Sự kiện bỏ Khe Sanh được công luận Mỹ nhìn nhận một cách “đầy ngờ vực và hoang mang”. Lầu Năm Góc ghi nhận việc công bố quyết định bỏ Khe Sanh là “một sứ mạng khó khăn về phương diện tuyên truyền”.
Mồng 7 tháng 7, tờ Thời báo New York đưa tin từ Hồng Kông, cho rằng người châu Á nhìn chung tin vào lý do Mỹ phải bỏ Khe Sanh mà đài Hà Nội đã đưa ra, và bác bỏ cách giải thích của Mỹ, theo đó việc bỏ Khe Sanh là do “tình hình về quân sự đã thay đổi”.
Không giống như một số trận đánh khác, Khe Sanh đã chiếm được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận ở Mỹ. 25 phần trăm thời lượng phim chiếu trên chương trình truyền hình buổi tối trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968 tường thuật tình hình ở Khe Sanh. Riêng kênh CBS, tỷ lệ này là 50 phần trăm. Viện Gallup đưa ra số liệu, cứ 5 người thì 1 vừa chuyển từ lập trường ủng hộ sang chống chiến tranh trong khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3. Vì thế, "cách tốt nhất để làm cho Khe Sanh khỏi gây ảnh hưởng xấu đối với công chúng Mỹ là bỏ căn cứ này”. Vậy là, Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.[18]
[sửa] Kết quả
Với Hoa Kỳ
Việc giữ vững căn cứ Khe Sanh có thể coi là một thắng lợi về mặt chiến thuật của Mĩ. Dù nhiều đơn vị bị thiệt hại nặng, song không có đơn vị lớn nào bị tiêu diệt hoặc bắt sống toàn bộ như Pháp ở Điện Biên Phủ. Song cái giá phải trả là không hề rẻ, với gần 7.500 thương vong chỉ trong 77 ngày (chưa kể thương vong trong 3 tháng sau đó), quân đồn trú tại Khe Sanh mất gần 1/2 quân số.
Cái giá quá đắt này khiến nhân dân Mĩ cảm thấy tức giận[19]. Hãng Reuter bình luận: "Khe Sanh được ghi vào lịch sử cuộc chiến tranh của Mỹ ở Nam Việt Nam như một nơi phải trả với giá đắt nhất bằng máu...".
Cùng với tác động của chiến dịch Tết Mậu thân, nhân dân Mĩ yêu cầu rút quân Mĩ về nước. Do đó, dù các cấp tướng lĩnh Mĩ muốn nhân cơ hội mở rộng căn cứ sang Lào, câu trả lời của Quốc hội là "Không"[19]
Cuối cùng, số phận của căn cứ được định đoạt khi các chính trị gia Mĩ không muốn đánh cược một lần nữa: Họ quyết định phá hủy và rút khỏi Khe Sanh, chấm dứt vai trò chiến lược của nó. Mĩ mở cuộc hành quân Scotland II tổ chức cho lính Mỹ rút khỏi Khe Sanh khi đó vẫn còn bị vây lỏng bởi 1 Sư đoàn QDNDVN. Quân Mĩ tiếp tục bị truy kích trên đường rút lui.
Quân nhân Mĩ cuối cùng rút khỏi khu vực vào 25 tháng 7, trước đó ngày 9 tháng 7 năm 1968, lá cờ Quân giải phóng đã được cắm trên cột cờ sân bay Tà Cơn
Với Quân đội Nhân dân Việt Nam
Trải qua 170 ngày đêm vây lấn Khe Sanh, QĐNDVN tuyên bố đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 3 TQLC và sư đoàn không vận số 1 Mỹ, diệt 11.900 quân Mĩ và VNCH (trong đó có hơn 10 ngàn lính Mỹ), phá hủy 197 máy bay, 78 xe tăng - xe thiết giáp, 46 khẩu pháo, 50 kho đạn, giải phóng một địa bàn rộng lớn phía tây tỉnh Quảng Trị với 1 vạn dân, phá vỡ một mảng tuyến phòng ngự thép ngăn chặn ở địa đầu Nam Việt Nam. Thông báo của Bộ tư lệnh Mặt trận QĐNDVN tuyên bố: “Sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục, vô cùng anh dũng và quyết liệt, quân giải phóng Mặt trận Khe Sanh đã chiến thắng oanh liệt, đập tan một ý đồ ngông cuồng và ngoan cố của giặc Mỹ tại chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, buộc chúng phải chịu thất thủ Khe Sanh" [20]
Khi xét về mục tiêu chiến dịch, QĐNDVN đã hoàn thành cả 2 mục tiêu, thậm chí đã hoàn thành mục tiêu thứ 3 là ép quân Mĩ rút khỏi Khe Sanh. Đây là cơ sở để QĐNDVN coi đây là một thắng lợi chiến lược to lớn. CHủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen: "...thắng lợi Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân, dân và cán bộ ta, góp phần vào thắng lợi to lớn của toàn miền Nam... mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa...". Sau chiến dịch, Sư đoàn 304 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì; các Trung đoàn đều được tặng thưởng Huân chương, 1.482 cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương; 2 đồng chí được tuyên dương Anh hùng LLVTND.[21].
Đây là lần đầu tiên QĐNDVN dàn quân ở cấp sư đoàn đối mặt với quân Mĩ. Tuy phải chịu nhiều thương vong do hỏa lực cực mạnh của Mĩ, đặc biệt là bom B-52 rải thảm, song họ cũng gây thiệt hại nặng tương đương cho các lực lượng tinh nhuệ bậc nhất của Hoa Kì là Thủy quân Lục chiến và quân biệt kích CIDG. Đây là thành tích đáng khích lệ đối với QĐNDVN, khi họ là bên tấn công và hoàn toàn lép vế về hỏa lực.
Với việc Mĩ bỏ Khe Sanh, Hàng rào điện tử McNamara coi như cáo chung. Kế hoạch chiến lược mà Mĩ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh coi như phá sản. Từ đây về sau, không còn căn cứ nào có thể uy hiếp trực tiếp tuyến đường cùng dòng hàng đưa ra tiền tuyến. Do đó có thể nói Trận Khe Sanh là bàn đạp cho các chiến dịch lớn của QĐNDVN sau này (chiến dịch Hạ Lào, chiến dịch Hè 1972...), và cuối cùng là chiến dịch quyết định Xuân 1975.
vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_%C4%90...
Đây là một trong những trận chiến ác liệt và được bàn thảo nhiều nhất. Chỉ huy căn cứ Khe Sanh lúc đó là đại tá Lownds (TQLC/HK), gồm có 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn TQLC và sau đó nhận thêm tiểu đoàn 37 Biệt động quân Việt Nam nâng tổng số quân tham chiến lên đến 6000 người vào cuối tháng giêng.
Mục đích chủ yếu của QĐNDVN khi tấn công Khe Sanh là nhằm "nghi binh" cho các hướng tiến công chính trong Chiến dịch Mậu Thân 1968 nhằm:
- Vị trí đặc biệt quan trọng của Khe Sanh giống như "cái mỏ neo" trong bản đồ quân sự của Mỹ, đặc biệt là uy hiếp đường Hồ Chí Minh và bảo vệ vùng I chiến thuật. Đây là trung tâm chỉ huy của Hàng rào điện tử McNamara mà Mĩ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh.
- Tập trung đánh và bao vây nhằm thu hút 1 lực lượng lớn quân Mĩ tham chiến, thu hút cả nước Mỹ hồi hộp theo dõi trận "Điện Biên Phủ thứ 2" có thể thay đổi cuộc chiến Việt Nam.
Từ năm 1962, quân Mỹ và quân Sài Gòn xây một căn cứ không quân - lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển Đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Năm 1962, căn cứ này được Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Lào. Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn cho sự tiếp vận từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Sau thất bại trong mùa khô 1965 -1966, Mc Namara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nảy ra ý định thiết lập một phòng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ nam sông Bến Hải để ngăn chặn đối phương. Ý tưởng của Mc Namara đã được 47 nhà khoa học tài ba nhất nước Mỹ tổ chức nghiên cứu thực thi. Sau ba tháng nghiên cứu, hội đồng khoa học dưới sự điều khiển của Mc Namara đã vạch ra một kế hoạch với tham vọng lớn:
- Phòng tuyến ước tính có chiều rộng khoảng 20km, từ nam vĩ tuyến 17 đến đường 9, chiều dài trên 100km chạy song song với sông Bến Hải từ biển Đông đến Sê Pôn (Lào) trong đó hành lang mặt bằng xây dựng có bề ngang 500m sẽ được san bằng như một sân bóng.
- Xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ khoảng 2 km có 1 tháp canh khoảng 4 km có 1 căn cứ cỡ đại đội hoặc tiểu đoàn.
- Bố trí một hệ thống công sự gồm đủ hầm hào, lô cốt kiên cố, hàng chục lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt, xen kẽ với nhiều lớp bom mìn đủ kiểu: mìn định hướng, mìn đĩa, mìn lá, mìn clây-mo, mìn chiếu sáng, lựu đạn nổ tức thì (Mỹ dự kiến sử dụng 20 triệu quả mìn và 25 triệu quả bom cỡ nhỏ). Đặc biệt phòng tuyến được trang bị phương tiện điện tử tối tân như "cây nhiệt đới", “máy thông minh", “máy phát hiện hơi người". Đây là các loại máy thu phát tiếng động tinh vi đủ cỡ 15 ngày, 3 tháng, hoặc 6 tháng thay pin một lần.
Căn cứ Khe Sanh được xác định là trung tâm của hệ thống hàng rào điện tử trên. Do đó, Khe Sanh- Quảng Trị được Mỹ xây dựng một tập đoàn phòng ngự mạnh, liên hoàn, kiên cố nhất của Mỹ ở địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm Làng Vây, Chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn.
Cụm cứ điểm Tà Cơn là cái lõi của tập đoàn phòng ngự Khe Sanh của Mỹ, có chiều dài khoảng 5 km, rộng khoảng 3 km, có một đường băng dã chiến dài khoảng hơn 3.000 m đảm bảo hoạt động của máy bay C-130 và một số trực thăng vũ trang. Hệ thống công sự, vật cản được xây dựng kiên cố và liên hoàn; công sự chiến đấu bằng bê tông đúc sẵn, hố chiến đấu cá nhân có nắp bằng bao cát, một số lô cốt bằng bê tông, hầm ngầm, hệ thống giao thông hào, chiến hào liên hoàn; xung quanh bao bọc từ 6 đến 10 hàng rào giây thép gai các loại, các bãi mìn dày đặc, xen kẽ rải cây nhiệt đới (loại thu tin điện tử) khắp các nơi.
[sửa] Kế hoạch của hai bên
[sửa] Hoa Kỳ
Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng Wesmoreland, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân địch vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (1-11-1967/31-3-1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Mỹ và Sài Gòn, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử McNamara và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Giải phóng, để dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.
Cả Nhà Trắng, Lầu Năm góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho Tổng thống Johnson dày hàng chục trang). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ, mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ Chiến dịch Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà Trắng), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của hải quân, không lực của thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zero (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm.
Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to: “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.
[sửa] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Qua nghiên cứu tình hình cách bố trí lực lượng cuối năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng VNDCCH đã vạch ra kế hoạch chiến lược năm 1968 là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu hút, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch mà chiến trường chính là hướng Đường 9 - Khe Sanh, thực hiện cuộc tiến công đồng loạt vào thành phố, thị xã kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng mở đầu cho một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh sẽ thực hiện nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch (chủ yếu là lính Mỹ), góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược trên, ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Theo quyết định trên, Thiếu tướng Trần Quý Hai Phó tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy mặt trận.
Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra nghị quyết chỉ rõ: Trong Xuân - Hè năm 1968, toàn mặt trận phải quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện thì phá vỡ một phần hệ thống phòng ngự của địch ở đường 9 và phát triển vào Trị - Thiên - Huế. Thu hút, giam chân, tiêu diệt lực lượng Mỹ - ngụy ra đường 9 càng nhiều càng tốt.
[sửa] Binh lực các bên
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Các sư đoàn bộ binh 304, 320, 324B và 325 (từ tháng 5, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 vào thay cho các sư đoàn 324B và 325 đi chiến trường khác), Trung đoàn 270 (Vĩnh Linh) và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 đoàn và 5 đại đội đặc công, 5 trung đoàn pháo binh (16, 45, 84 và 204), 3 trung đoàn pháo phòng không, 1 tiểu đoàn tăng - thiết giáp, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn hoá học, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá.
Tổng cộng lực lượng trên toàn tuyến có khoảng 40 ngàn quân. Trong đó 2 Sư đoàn 204 và sư đoàn 325 (tổng cộng khoảng 17.000 quân) thực hiện bao vây Khe Sanh, còn các sư đoàn 320 và 324 thực hiện cắt đường 9, chặn quân tiếp viện của Mỹ. Các lực lượng vũ trang địa phương thực hiện đánh tập kích diệt các đoàn vận tải, tiêu hao sinh lực địch
Quân đội Hoa Kỳ
Có khoảng 45.000 quân trên toàn tuyến (trong đó có 28.000 quân Mỹ),gồm 3 trung đoàn tăng cường thuộc Sư đoàn thủy quân lục chiến 3; 4 tiểu đoàn tàu tuần tra và vận tải (5, 10, 53 và 301), 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới, trong quá trình phòng ngự được sự chi viện mạnh của không quân, pháo binh ở phía sau.
Riêng ở Khe Sanh, Mỹ có 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 26, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 9 TQLC Mỹ, Sở chỉ huy chiến dịch lưu động - FOB-3 của Lục quân Mỹ (588 lính), 1 tiểu đoàn pháo 155 ly, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội chống tăng, Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH, 1 đội thám báo 300 lính, tổng cộng 6.680 lính.
Từ tháng 4 khi Mỹ mở Chiến dịch Pegasus huy động thêm Sư đoàn kỵ binh không vận 1 của Mỹ, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 26 TQLC Mĩ, Chiến đoàn dù 3 VNCH cùng nhiều đơn vị biệt động quân và bảo an, tổng cộng 20.000 quân yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo.
Bên cạnh đó, Chiến dịch Niagra và Chiến dịch Arc Light để hỗ trợ không quân cho Khe Sanh cũng thu hút một lực lượng hùng hậu: 3.300 trực thăng (nhiều hơn số trực thăng chiến đấu của 3 nước Anh, Pháp, Đức cộng lại), không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút hơn 110.000 tấn bom các loại (gấp 6 lần quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và bằng lượng bom ném xuống Nhật suốt cả năm 1945).
Bảo đảm kỹ thuật - hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MediVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô khổng lồ trên các máy bay trọng tải lớn C-130. Mỹ có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày (trong khi Pháp chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn). Từ 19 đến 25 tháng Giêng, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals cũng được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ.
Quân đội Hoa Kỳ ở Khe Sanh được yểm trợ hỏa lực bởi những vũ khí tân kỳ nhất thời đó. Các tổ hợp ra-đa phản pháo mới như SKY SPOT; 16 bộ pháo tự hành trên xe xích “Vua Chiến trường” 175mm bố trí tại trại Carol ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh Rockpile, 18 lựu pháo 105mm, 8 lựu pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105mm COFAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống bộ binh…
[sửa] Diễn biến
Quân đội Nhân dân Việt Nam chia chiến dịch ra làm 4 giai đoạn:
Chiến dịch diễn ra 4 đợt:
* Đợt 1 (20/1-7/2), Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến công quận lỵ Hướng Hoá và cứ điểm Huội San (xem trận Huội San, 24-1-1968), diệt cứ điểm Làng Vây (xem trận Làng Vây, 6-7/2/1968), làm chủ đoạn đường 9 từ Cà Lu đến biên giới Việt - Lào.
* Đợt 2 (8/2-31/3): phát triển lên vây lấn và pháo kích căn cứ Khe Sanh suốt 50 ngày đêm; bao vây Cồn Tiên, đánh một số trận ở hướng Đông Quốc lộ 1.
* Đợt 3 (1-30/4): đánh quân Mỹ ứng cứu trong chiến dịch Pegasus, giải toả, giữ vững các khu vực làng Khoai, Cu Bốc, các điểm cao 689 và 622, triệt phá giao thông trên đường 9.
* Đợt 4 (8/5-15/7), khôi phục thế vây lấn Tà Cơn, đánh quân Mỹ rút chạy khỏi Khe Sanh.
[sửa] Đợt 1
Trận đánh mở màn nổ ra ngày 20 tháng 1/1968, xảy ra trên Đồi 881-Nam (Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội K. Rạng sáng 20-1, Đại đội I/3/26 TQLC Mỹ bị QĐNDVN phục kích ở gần 881 Nam, chỉ trong ít phút đã có hơn 15 lính Mỹ chết, 21 bị thương và 19 mất tích (ngày hôm sau tìm thấy xác). Các căn cứ hỏa lực Mỹ quanh vùng đáp trả, bom Napalm từ phi cơ không yểm ném xuống ngăn cản được đợt xung phong của QĐNDVN. Toán TQLC Mỹ bị thiệt hại nặng, phải rút lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam.
Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là "Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc. Cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc với tiểu đoàn 6, trung đoàn 95C QĐNDVN. Quân Mỹ thiệt hại 7 chết và 35 bị thương, QĐNDVN có 15 người chết và 95 bị thương.
Rạng ngày 21 tháng 1/1968, Sư đoàn 325 dùng tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 đánh điểm cao 832 (Mỹ gọi là 861, tây bắc Tà Cơn khoảng 4 km) do đại đội K/3/26 lính thủy đánh bộ Mỹ tổ chức phòng ngự. Mặc dù được hỏa lực pháo binh chi viện nhưng quân Mỹ dựa vào lợi thế điểm cao, có hệ thống công sự trận địa phòng ngự vững chắc, đặc biệt là được cụm pháo Tà Cơn chi viện trực tiếp nên các đợt tấn công tiểu đoàn 6 đều bị đẩy lùi và bị thiệt hại lớn, 20 người chết, 68 bị thương. Quân Mỹ có 4 chết và 11 bị thương.
Đêm ngày 20 rạng ngày 21 tháng 1, pháo binh chiến dịch và của Sư đoàn 304 phát hỏa. Đòn tiến công bất ngờ kéo dài với uy lực mạnh đánh vào nhiều mục tiêu quan trọng của địch ở Khe Sanh đã “khoan" nhiều hố trên đường băng, làm cháy kho đạn 1.500 tấn, phá một máy bay lên thẳng [14]. Mô tả cảnh tượng trên, nhà báo Mỹ Micheal Mclair viết: “Rạng sáng ngày 21 tháng 1 năm 1968, pháo tầm xa của Bắc Việt Nam mở màn cuộc bao vây ở Khe Sanh với sự chính xác tai hại, 300 quả đạn đã làm 18 lính Mỹ chết, 40 bị thương, những quả đạn pháo ấy như rơi ngay vào Oa-sinh-tơn”[15]
Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình Khe Sanh nguy ngập bởi kho đạn 1.500 tấn, chiếm phần lớn dự trữ đã bị phá hủy. Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ cùng máy bay vận tải chở đạn dược khẩn cấp đến tăng cường cho Khe Sanh.
Tiếp tục thực hiện ý định chiến dịch, ngày 23 tháng 1, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh hạ lệnh tiến công tiêu diệt cứ điểm Huội San nằm sát biên giới Việt - Lào. Huội San là khu vực phòng ngự của quân Hoàng gia Lào (6 đại đội) và một số trung đội dân vệ, tổ chức thành 12 cứ điểm nhỏ, trung tâm là cứ điểm Tà Mây. Để đảm bảo đánh chắc thắng, ngoài lực lượng Trung đoàn 24 Sư đoàn 304, Bộ tư lệnh đã tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng lội nước (11 xe PT-76) 1 đại đội công binh, một số trung đội địa phương và một số cán bộ địch vận của Quân giải phóng Lào.
19 giờ ngày 23 tháng 1, khi hỏa lực pháo binh bắn chuẩn bị, các mũi tiến công của bộ binh và xe tăng QĐNDVN bắt đầu xuất phát xung phong. Được xe tăng chi viện, các mũi tiến công của bộ binh nhanh chóng vượt qua cửa mở, tiến vào tung thâm, chia cắt địch, diệt sở chỉ huy, chiếm các mục tiêu và dập tắt mọi sự chống cự của quân Hoàng gia Lào. 8 giờ sáng cùng ngày, QĐNDVN đã làm chủ căn cứ Tà Mây cùng hệ thống phòng ngự Huội San. Phần lớn hơn 1.000 quân Lào chốt giữ ở đây đều bị tiêu diệt và bị bắt, chỉ một bộ phận nhỏ (khoảng 350 lính) chạy thoát về Làng Vây. QĐNDVN chỉ bị thiệt hại nhẹ với 29 chết và 54 bị thương.[16]
Đêm ngày 23 tháng 1, Sư đoàn 320 lệnh cho tiểu đoàn 1 Trung đoàn 64 cùng các tiểu đoàn 14 (pháo, cối mang vác) và 16 khẩu súng máy cao xạ 12,7 ly... cơ động triển khai xây dựng hệ thống công sự trận địa ở Động Mã; lệnh cho tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 vào bố trí ở đông nam Cù Đinh (điểm cao 182) sẵn sàng đánh địch ra ứng cứu đường 9. Qua 4 ngày chiến đấu quyết liệt (23 đến 28 tháng 1), tổn thất 97 người hy sinh, tiểu đoàn 7 và 8 Trung đoàn 64 đã phá hủy 10 xe quân sự (có 2 xe tăng), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 quân Mỹ, hoàn thành được nhiệm vụ cắt đứt đường 9, tạo điều kiện thuận lợi cho các Sư đoàn 304 và 325 siết chặt vòng vây ở Khe Sanh.
Cùng với các đòn tiến công trên bộ, trong các ngày 20, 21, 22 tháng 1 năm 1968, Đoàn 126 đặc công Hải quân có sự phối hợp chiến đấu của tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh và du kích huyện Do Linh đã liên tiếp đánh chìm 6 tàu LCU trên cảng Đông Hà và đoạn sông làng Xuân Khánh. Tiếp đó, trong 3 ngày 26, 27 và 28 tháng 1, đặc công Hải quân Đoàn 126 lại dùng thủy lôi diệt thêm 3 tàu LCU chở đầy hàng hóa quân sự của Mỹ từ Đà Nẵng qua Cửa Việt lên Đông Hà. 9 giờ sáng ngày 8 tháng 2, đặc công Hải quân Đoàn 126 lại phục kích đoàn tàu vận tải Mỹ, đánh chìm 4 tàu LCU cùng hàng ngàn tấn đạn dược.
Thắng lợi bước đầu trong việc phong tỏa cảng sông Cửa Việt đã góp phần quan trọng cho cho việc cô lập quân Mỹ trên hướng chủ yếu Khe Sanh.
Sau khi tiêu diệt các căn cứ Hướng Hóa, Huội San, đánh thiệt hại lực lượng Mỹ trên đường 9 và chi khu Cam Lộ, Bộ Tổng Tham mưu đã gửi công điện khẩn cho Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị: "Phải diệt căn cứ Làng Vây trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác chiến chung với toàn Miền”.
Để đánh chắc thắng Làng Vây, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương dùng một lực lượng mạnh áp đảo gồm Trung đoàn 24 Sư đoàn bộ binh 304, tiểu đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 325, Trung đoàn công binh 7 (thiếu), 2 đại đội xe tăng với 14 xe, 2 đại đội đặc công. Đến 3 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2, cả ba hướng đã cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm được các mục tiêu theo phân công. Đến 10 giờ trưa ngày 7 tháng 2, trận Làng Vây kết thúc, hơn 900 quân đồn trú chỉ có 255 thoát về được Khe Sanh (trong đó có 75 bị thương). QĐNDVN diệt gọn một cứ điểm quan trọng án ngữ trên đường 9, đẩy cụm cứ điểm Tà Cơn vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh.
Sức ép của Quân giải phóng ở Đường 9 - Khe Sanh ngày càng tăng đã làm cho bộ chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam thực sự lo ngại. Tướng Westmoreland đã từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để gặp các tướng lĩnh chỉ huy các sư đoàn lính thủy đánh bộ và lục quân vùng 1 chiến thuật bàn cách đối phó. Cùng với việc tăng quân, Mỹ thiết lập một Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACVFOARD) tại Phú Bài để điều khiển lực lượng đánh trả các cuộc tiến công của Quân giải phóng trên đường 9 - Khe Sanh. Vì vậy số lượng quân chiến đấu của Mỹ ở đây đã lên tới 43 tiểu đoàn chủ lực (25 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu đoàn quân Sài Gòn) với tổng quân số 69.490 lính (trong đó có 40.800 Mỹ).
Đến đây, Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đã hoàn thành được nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Giai đoạn 1 chiến dịch đến đây cũng kết thúc
[sửa] Đợt 2
Sau các trận đánh ở Động Trị, Huội San, Hướng Hóa, Cam Lộ... thất bại ở Làng Vây đã đẩy cụm cứ điểm Khe Sanh của Mỹ vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh. Để bảo vệ Khe Sanh, ngoài lực lượng hỏa lực bố trí trong căn cứ, Mỹ còn dùng pháo binh hỗn hợp cùng máy bay các loại kể cả B-52 chi viện tối đa (có ngày pháo binh bắn tới 15.000 quả, máy bay chiến thuật oanh tạc tới 300 lần xung quanh căn cứ mỗi ngày).
Ngày 8 tháng 2, để đảm bảo cho việc phục vụ vây lấn ở hướng tây chắc chắn thắng lợi, Bộ chỉ huy Mặt trận đã điện cho Sư đoàn 304, Sư đoàn 325 phải thực hiện tốt việc nhanh chóng chuẩn bị chu đáo mọi yếu tố cần thiết để đưa lực lượng vào thực hành vây lấn ngay. Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận, bằng sự nỗ lực rất cao của mỗi chiến sĩ, đến ngày 10 tháng 2 năm 1968, hai Trung đoàn 9, 66 Sư đoàn 304, các trung đoàn 95c và 101D thuộc Sư đoàn 325C cùng bộ đội địa phương Hướng Hóa đã xây dựng được 13 trận địa vây lấn bao quanh căn cứ Khe Sanh. Chiến thuật vây lấn từng làm nên trận Điện Biên Phủ sẽ được sử dụng.
Vì cụm cứ điểm Khe Sanh là một cụm phòng ngự mạnh, kiên cố, vững chắc nhất của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, do đó QĐNDVN chủ trương "Diệt một số cứ điểm ngoại vi sau đó vây ép chặt buộc địch ra giải tỏa, để ta đánh địch ngoài công sự, vừa diệt được nhiều địch, lại giảm thương vong của ta". Ngay ngày 9 tháng 2, một trận kịch chiến xảy ra trên Đồi 64 giữa quân Mỹ được trực thăng và phi cơ yểm trợ với 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 101D, quân Mỹ có 26 lính tử trận và 27 bị thương. QĐNDVN chịu thương vong 58 chết và 71 bị thương, song đã giữ được trận địa.
Cố vấn Walt W. Rostow trình bày cho Lyndon B. Johnson trên sa bàn Khe Sanh, 15-2-1968
Trung đoàn 9 vào vây lấn trực tiếp trên 2 hướng: đông đông nam và tây tây nam, 2 trung đoàn 95 và 101D/F325 vây xa trên các cao điểm phía bắc: 845, 852, 550. Chỉ trong thời gian ngắn trận địa vây lấn đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh: Có hệ thống công sự chiến đấu có nắp, hệ thống chiến hào, giao thông hào liên hoàn; trung đoàn còn huy động các lực lượng của đơn vị đào được 2 giao thông hào dài 5 km nối liền từ các trận địa chốt với phía sau nam đường 9. Hệ thống hỏa lực được bố trí chặt chẽ có thể khống chế được sân bay, đồng thời một số tổ bắn tỉa có kính ngắm hồng ngoại đã vào sát hàng rào xây dựng công sự chiến đấu, cả ngày và đêm. Ngoài các loại hỏa lực bản thân, khi xảy ra tác chiến trung đoàn còn được các cụm pháo của sư đoàn và mặt trận chi viện trực tiếp.
Sau khi xây dựng được trận địa tương đối hoàn chỉnh, các trận địa chốt và hỏa lực cối, 12,7 ly bắt đầu khống chế sân bay làm cho máy bay Mỹ xuống tiếp tế gặp khó khăn, hoạt động đi lại của quân Mỹ trong căn cứ cũng bị khống chế, một số đã bị bắn tỉa tiêu diệt. Đồng thời các mũi lấn dũi cũng ngày càng phát triển sâu vào áp sát các cứ điểm, có mũi đã lấn dũi qua hàng rào thứ 2, 3 của Mỹ.
Ngày 11-2, một tin xấu đến với hệ thống vận tải chi viện cho Khe Sanh của Mỹ. Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh thì 1 đã nổ tung vì trúng đạn pháo kích, toàn bộ 6 phi công thiệt mạng. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay "khập khễnh" về phi trường Đà Nẵng. Từ đó về sau, các máy bay vận tải của Mỹ không còn dám đáp xuống đường băng mà phải sử dụng cách bay sát đường băng rồi đẩy hàng có buộc dù qua cửa sau bụng phi cơ, dù cách này sẽ khiến một lượng lớn hàng hóa bị hư hỏng khi tiếp đất.
Super Gaggle: Trực thăng CH-46 Sea Knight chở hàng tiếp tế (trên) và A-4 Skyhawk hỗ trợ không kích
Việc tiếp vận cho các ngọn đồi quanh lòng chảo cũng có ý nghĩa sống còn với Mỹ, bởi nếu mất các ngọn đồi này thì pháo binh QĐNDVN sẽ có thể bắn trực xạ vào căn cứ với độ chính xác rất cao. Mỹ phải huy động hàng trăm trực thăng mỗi ngày để tiếp tế cho các ngọn đồi này. Thậm chí việc tắm rửa của lính Mỹ cũng bằng nước thả xuống từ trực thăng. Một sỹ quan QĐNDVN đã viết trong hồi ký: "Chúng tôi vượt hàng trăm cây số đường rừng chỉ với 1 bi-đông nước, trong khi lính Mỹ dùng tới cả trực thăng chỉ để tắm giặt. Khi thấy cảnh này, tôi tin chắc nếu kiên trì, chúng tôi sẽ chiến thắng cuộc chiến này".
Nắm được quy luật hoạt động của trực thăng, QĐNDVN bố trí các khẩ đội súng máy 12,7 ly ngụy trang kĩ để đón lõng trực thăng Mỹ khi thả hàng. Chỉ trong 2 tuần đã có hàng chục trực thăng Mỹ bị hạ. Không quân Mỹ phải bố trí các phi vụ ném bom yểm trợ cho đội trực thăng thì thiệt hại mới giảm đi.
Để đẩy lùi lực lượng QĐNDVN ra khỏi Khe Sanh, Mỹ đã sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân không hạn chế. Tính từ ngày 21 tháng 1 đến ngày 3 tháng 3 năm 1968, không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút hơn 100.000 tấn bom các loại, đồng thời pháo binh từ Khe Sanh, trại Carol và Rockpile bắn 150.000 quả đạn tạo nên những trận bão lửa dữ dội trên khắp khu vực Khe Sanh.
Đối phó với hỏa lực cực mạnh của Mỹ, QĐNDVN đã dùng thứ vũ khí thô sơ nhưng hiệu quả nhất: các chiến hào, vốn từng được kiểm nghiệm qua trận Điện Biên Phủ. Theo tính toán của Mỹ, cần tới 1000 viên đạn pháo chỉ để phá hủy 30 mét đường hào cùng một vài binh sĩ trong đó. Tuy nhiên trước hỏa lực áp đảo và sức đánh phá dữ dội, thương vong của QĐNDVN cũng tăng dần. Mỗi ngày phải sửa, đào mới 40-50% chiến hào, ngày cao điểm đánh phá có hướng, mũi phải sửa chữa đến 70% công sự trận địa. Cùng với thiệt hại về công sự, vật chất kỹ thuật, số lượng cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh lên tới gần 200 người mỗi tuần.
Thấy dùng không quân và pháo binh không ngăn được phát triển của các mũi vây lấn, Mỹ phải đưa lực lượng trong căn cứ ra thực hành phản kích hòng đẩy lùi các mũi lấn dũi ra xa và chiếm lại một số chốt. Nhiều cuộc chiến đấu diễn ra cực kỳ ác liệt. Ví dụ như cuộc giao tranh ngày 25-2, 1 trung đội thuộc đại đội B/1/26 của Mỹ mất gần hết quân số với 5 lính chết, 17 bị thương, 25 mất tích và 1 bị bắt.
Kết hợp với vây lấn, pháo binh QĐNDVN liên tục pháo kích tiêu hao sinh lực của quân Mỹ. Đỉnh điểm là ngày 23-2, pháo kích làm nổ tung 1 kho đạn, khiến 12 lính Mỹ chết và 51 bị thương.[17]
Sau 2 tháng bị vây, số phận của hơn 6.000 lính Mỹ trong căn cứ Khe Sanh vô cùng khốn đốn; nhưng trên toàn chiến trường miền Nam nhiều nơi đang diễn ra những cuộc đọ sức quyết liệt, nên Mỹ vẫn chưa thể đưa quân giải tỏa cho Khe Sanh.
Trung tuần tháng 3/1968, bộ chỉ huy QĐNDVN dự kiến "Nếu cuối tháng 3/1968 địch chưa tung quân ra giải tỏa thì ta sẽ đưa lực lượng đánh chiếm một đoạn tiền duyên phòng ngự của địch để tăng sức ép"; nhiệm vụ đánh chiếm tiền duyên được giao cho Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9 chốt ở đông sân bay Tà Cơn. Ngày 22/3/1968, mặt trận quyết định đánh chiếm tiền duyên đông sân bay Tà Cơn. Đúng 23h30 ngày 22/3/1968, lệnh tấn công pháo binh của Sư đoàn và mặt trận bắn vào Sở chỉ huy cụm phòng ngự Tà Cơn và chế áp các trận địa pháo, súng cối và hỏa lực bắn thẳng của Mỹ. Trận đánh diễn ra quyết liệt, tổ bộ phá thương vong gần hết. Nhận thấy việc đánh chiếm tiền duyên khó thành công nên mặt trận và Sư đoàn đã lệnh dừng tấn công, lui vào trận địa chốt củng cố. Quân Mỹ có 8 lính chết và 21 bị thương, QĐNDVN có 57 người chết.
Trận tấn công đánh chiếm một bộ phận tiền duyên ở đông sân bay Tà Cơn tuy chưa thành công nhưng đã tạo sức ép ghê gớm đối với Mỹ, báo chí Mỹ phải kêu lên: "Sống ở Khe Sanh nào khác gì kẻ bị kết án ngồi trên ghế điện" (Tin AP). Để giảm áp lực, ngày 30/3/1968 quân Mỹ tổ chức một cuộc phản kích lớn vào trận địa chốt số 3 của đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 9 với 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ, 2 đại đội quân Sài Gòn và xe tăng, ý định chiếm bằng được chốt, nhưng sau gần 5 giờ chiến đấu liên tục, quân Mỹ phải rút lui với 12 lính chết và 100 bị thương. Đây là trận phản kích cuối cùng của quân Mỹ trong căn cứ.
Đến lúc này cả Tổng thống Johnson và Quốc hội Mỹ đều lo cho gần 6.000 quân Mỹ đang chết dần chết mòn ở Khe Sanh; cả thế giới cũng hồi hộp theo dõi diễn biến chiến sự tại Khe Sanh. Trước nguy cơ Khe Sanh bị tiêu diệt như Điện Biên Phủ, cuối cùng Tổng thống Johnson phải quyết định điều một lực lượng thật mạnh cứu nguy cho Khe Sanh. Giai đoạn 2 chiến dịch kết thúc chuyển sang giai đoạn 3.
[sửa] Đợt 3
Ngày 1/4/1968 chiến dịch giải tỏa cho Khe Sanh bắt đầu. Sư đoàn không vận số 1 - lực lượng cơ động mạnh nhất, được tung vào Khe Sanh. Sư đoàn gồm 3 lữ đoàn, mỗi lữ đoàn có 3 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có từ 800 đến 1000 quân; 1 tiểu đoàn trinh sát không kỵ; 1 tiểu đoàn trực thăng vũ trang; 3 tiểu đoàn pháo 105 ly; 2 đại đội pháo sáng; 1 đại đội máy bay vận tải có tổng cộng 439 máy bay trực thăng và một số máy bay vận tải. Ngoài ra, còn có chiến đoàn dù số 3 quân đội Sài Gòn và 1 tiểu đoàn pháo 105 ly cùng tham gia.
Với tổng biên chế 15.787 người, 434 máy bay (chủ yếu là trực thăng), 1.600 xe các loại, 54 khẩu pháo 105 ly, 87 dàn rốc-két với 1.872 ống phóng cỡ 70 ly lắp đặt trên trực thăng vũ trang, sư đoàn kỵ binh 1 có một khả năng cơ động và hỏa lực mà không một đơn vị nào khác trên thế giới có được.
Ngay sau khi Mỹ mở cuộc hành quân Pegasus (Ngựa bay) giải tỏa cho Khe Sanh, Bộ Tư lệnh QĐNDVN điều động thêm Sư đoàn 308 vào tham gia chiến đấu thay Sư đoàn 304 tại chiến trường Khe Sanh.
Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1968, không quân Mỹ đã sử dụng 15 lần chiếc B-52 rải bom dọc hai bên trục đường 9, tiếp đó các máy bay trực thăng đổ 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận xuống Bồng Nho, Động Tro và Úc Nghi, đổ 1 đại đội pháo binh xuống Khe Sanh. Cùng với đường không, trong ngày Mỹ còn cho 147 lần chiếc xe vận tải chuyển đồ dùng quân sự và đạn dược từ Tân Lâm đến Cà Lu. Ngày 2/4/1968, B-52 oanh tạc đông nam Khe Sanh, 14h30 trực thăng đổ 1 tiểu đoàn quân Mỹ xuống đông làng Cát và 1 tiểu đoàn xuống Cà Lu. Sau khi được thả xuống bãi đáp, tiểu đoàn 1/5 KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đã đụng độ với một Tiểu Đoàn QĐNDVN đang phòng thủ tại đây, TĐ 1/5 KBKV bị thiệt hại nặng, Trung Tá Runkle Tiểu đoàn Trưởng thiệt mạng. TĐ 2/5 KBKV được lệnh vào thay thế nhưng QĐNDVN đã rút lui.
Ngày 3 tháng 4, quân Mỹ tiếp tục cho 200 lần chiếc trực thăng đổ lữ 1 kỵ binh không vận Mỹ xuống Pa Ka, Làng Con, điểm cao 420, Cô Nhôm. Sáng ngày 4 tháng 4 năm 1968, với ý định đánh chiếm bằng được điểm cao 471, khống chế vùng tây nam Tà Cơn, Mỹ dùng hỏa lực pháo binh và không quân bắn phá dữ dội nhiều giờ vào điểm cao và đưa tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 lính thủy đánh bộ Mỹ ra chiếm các mỏm 3, 4, 5 ở động Ché Riêng, nhưng đã bị đại đội 7, tiểu đoàn 2, trung đoàn 9 và 1 phân đội của tiểu đoàn 9, trung đoàn 66 chặn đánh. Trận chiến đấu giằng co kéo dài từ 10 giờ sáng đến 15 giờ chiều vẫn không phân thắng bại, số thương vong của Mỹ đã là 10 chết và 56 bị thương, chỉ huy quân Mỹ quyết định dùng trực thăng đổ một tiểu đoàn kỵ binh không vận xuống mỏm 3 và 4 động Ché Riêng, tiếp tục tổ chức đánh chiếm điểm cao 471.
Sau một ngày chiến đấu ác liệt, QĐNDVN cũng có 16 người tử trận, nhưng ngay trong đêm ngày 5 tháng 4 đã bất ngờ tập kích vào khu trú quân của Mỹ trên mỏm 2 động Ché Riêng khiến 1 lính Mỹ chết và 28 lính bị thương.
Tại hướng khác, tiểu đoàn 3 QĐNDVN đã được lệnh xây dựng chốt ngăn chặn ở làng Khoai, lực lượng bố trí chốt làng Khoai gồm 20 tay súng do Nguyễn Văn Bình - tham mưu trưởng Tiểu đoàn và Bùi Ngoãn, đại đội phó đại đội 11/D3 chỉ huy. Sáng 4/4/1968, sau khi cho pháo binh và trực thăng vũ trang bắn phá hàng giờ đồng hồ vào trận địa chốt làng Khoai, một tiểu đoàn Mỹ chia làm 2 mũi tấn công vào chốt làng Khoai. Trong ngày hôm đó, 5 đợt tấn công của Mỹ đã bẻ gãy, thương vong gần 100 lính; đợt tiến công thứ 3 đại đội phó Bùi Ngoãn bị thương gãy chân đã yêu cầu 1 chiến sĩ dùng lưỡi lê cắt chân bị gãy để tiếp tục chỉ huy chiến đấu và đã hy sinh tại trận địa (kết thúc chiến dịch, Bùi Ngoãn được đề nghị tuyên dương Anh hùng LLVTND và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba).
Sau 1 ngày chiến đấu, 20 tay súng đã bị thưong vong mất 10 người, trận địa bị phá hoại một phần nên chiều hôm đó QĐNDVN lui về tuyến 2 chốt giữ. Chốt làng Khoai còn chiến đấu liên tục đến ngày 7/4/1968 thì được lệnh rút sang phía nam để phối hợp với hỏa lực tiếp tục đánh quân Mỹ.
Tiêu biểu nhất trong các trận đánh giành chốt trong các ngày đầu tháng 4 năm 1968 là điểm cao 558, nằm ở phía tây cụm cứ điểm Tà Cơn. Lực lượng QĐNDVN giữ chốt ở đây ngoài 2 tiểu đội bộ binh chiếm giữ ở hai mỏm đồi còn có hai khẩu 12,7 ly và một khẩu cối 60 ly bố trí ở khu vực yên ngựa, có hệ thống hầm hào, công sự trận địa khá vững chắc. Tại chốt 595 diễn ra trận chiến đấu ác liệt suốt 2 ngày 6- 7/4, được gọi là "kỳ tích 1 chống 40". 2 tiểu đội QĐNDVN đã chặn đánh 2 tiểu đoàn Mỹ trong 2 ngày, được ghi nhận tiêu diệt gần 200 lính Mỹ (riêng chiến sĩ Nguyễn Hữu Bào diệt 79 lính Mỹ, cuối chiến dịch được tuyên dương Anh hùng LLVTND). Tài liệu Mỹ cũng xác nhận trong ngày đầu tiên đánh chốt đã có 10 lính Mỹ chết và 47 bị thương.
Tuy nhiên với sức cơ động và hỏa lực áp đảo, quân Mỹ vẫn lấn dần đến Khe Sanh. Ngày 6/4/1968 các đơn vị kỵ binh không vận đã bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ tại đồi 471. Sau đó TĐ 1/9 TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ ngọn đồi 552 rồi đến đồi 681 nhưng không gặp một kháng cự nào.
Song song với nhiệm vụ đánh quân Mỹ hành quân giải tỏa các điểm cao quan trọng xung quanh Khe Sanh và đường 9, Bộ tư lệnh QĐNDVN cho các đơn vị chủ động tổ chức các trận tập kích tiêu diệt các vị trí tiến quân tạm thời của lực lượng kỵ binh không vận Mỹ.
Sáng ngày 5 tháng 4, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 bất ngờ tiến công loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 lính kỵ binh không vận trên điểm cao 400. Sáng ngày 7 tháng 4, chiến đoàn Dù số 3 VNCH đã dùng 132 máy bay lên thẳng từ Nhơn Biều đổ xuống các ngọn đồi phía tây bắc Làng Vây cũ vàtiến hành đổ bộ đợt hai xuống Rồ Cút. Nhưng ngay sau khi đổ quân đã bị pháo tập kích trúng đội hình, hàng chục lính thuộc tiểu đoàn 2 và 6 Dù bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tiểu đoàn 3 và 8 Dù bị Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 bám đánh liên tục, tiêu hao một bộ phận lực lượng và phương tiện, buộc phải co cụm lên điểm cao 400. Đêm ngày 8 tháng 4, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 bất ngờ tập kích diệt thêm một số, trong đó có thiếu tá tham mưu trưởng chiến đoàn dù số 3 là Bùi Văn Thạch cũng tử trận.
Cùng ngày 7-4, ở Đồi 552 và 689, tiểu đoàn 1/9 của TQLC Mỹ cũng bị pháo kích bằng súng cối làm 9 lính Mỹ chết và 27 bị thương.
Để tạo hành lang an toàn, quân Mỹ tiếp tục cho quân đánh nống ra các điểm cao. Ngày 10 tháng 4, tiểu đoàn 6 Dù VNCH được một tiểu đoàn kỵ binh Mỹ yểm trợ chia làm 3 mũi hành quân đánh chiếm Làng Vây cũ. Được pháo binh chi viện, tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 đã liên tục đẩy lùi 3 đợt xung phong vào căn cứ Làng Vây, buộc tiểu đoàn 6 Dù phải lùi về điểm cao 500 (tây bắc Làng Vây). Ngay đêm ngày 11 tháng 4, tiểu đoàn 7 quyết định tiến công điểm cao 500, diệt thêm một đại đội, làm thiệt hại nặng một đại đội khác. Các lực lượng Hoa Kỳ sau đó đã sử dụng tối đa ưu thế của không quân, pháo binh và cả chất độc hoá học khiến Trung đoàn 66 phải rút lui.
Lữ 1 kỵ binh Mỹ sau khi chiếm được Làng Vây cũ đã nhanh chóng đánh chiếm Pa Ka, Làng Con, Làng Trài, Bi Hiên, đẩy được một số đơn vị của QĐNDVN ra xa. Tuy vậy sau một tuần tác chiến ở khu vực Làng Vây, chiến đoàn dù số 3 đã bị thiệt hại tới 40% quân số. Tinh thần quân Dù mất ổn định nghiêm trọng, phải rút về căn cứ ở Huế để củng cố. Cuộc hành quân quân “Lam Sơn 207" của lữ đoàn Dù số 3 đến đây chấm dứt.
Theo tuyên bố của Hoa Kỳ, chiến dịch Ngựa bay kết thúc ngày 8-4 và Khe Sanh đã được giải vây. Tối ngày 14/4/1968, hãng UPI và đài BBC đều công bố: "Cuộc hành quân Pegasus (Ngựa bay) đã chấm dứt". Song thực tế quân Mỹ mới chỉ tạo được một tuyến tiếp vận đến Khe Sanh từ hướng Đông, 3 mặt còn lại của căn cứ vẫn bị vây lỏng, các trận đánh ác liệt vẫn diễn ra và quân Mỹ thường xuyên bị tập kích. Tiêu biểu như ngày 13-4 năm 1968, tại đồi 881 Bắc, lợi dụng lúc Tiểu đoàn 3/26 của TQLC Mỹ tiến công đánh chốt 622 lộ toàn bộ đội hình trên trận địa, tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 đang ém sẵn ở các vị trí có lợi đã bất ngờ xuất quân trên nhiều hướng tiến đánh đội hình Mỹ; loại khỏi vòng chiến đấu 30 lính Mỹ. Ngày 15-4, QĐNDVN tập kích bãi đáp của đại đội A/1/9 ở tây nam đồi 689 và diệt đại đội C và D của Không kỵ Mỹ tới chi viện làm 41 lính Mỹ chết, 32 bị thương và 3 mất tích.
Cùng thời gian trên, trên hướng đông, Sư đoàn 320 cũng tăng cường hoạt động tác chiến. Trung đoàn 64 liên tục tiến công trên đường 9 diệt nhiều xe cơ giới và quân chiến đấu của Mỹ. Nhiều mũi tiến quân của Mỹ nống ra phá thế vây hãm ở khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, An Thái... đã bị Trung đoàn 48 chặn đánh và tiêu hao.
Ngày 21 tháng 4, 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ chia làm nhiều mũi cơ động tiến đánh điểm cao 622. Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 đã bám trụ công sự trận địa vững chắc kết hợp với vận động tiến công quy mô nhỏ trên từng hướng, đánh bại từng mũi tiến công lên điểm cao, đẩy quân Mỹ trở lại Khe Sanh.
Ngày 23 tháng 4, gần 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ Làng Con - Húc Hạ đã mở cuộc hành quân về phía Làng Vây, khi quân Mỹ vừa đổ quân chiếm vị trí xuất phát xung phong đã bị lực lượng cơ động của Sư đoàn 304 chặn đánh quyết liệt, bắn cháy 2 máy bay chở quân, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực... bị đòn phủ đầu thiệt hại lớn về quân số, tổn thương nặng về tinh thần, số còn lại vội rút về Húc Hạ bỏ dở cuộc hành quân.
Trên tuyến đường 9, tiểu đoàn 8 liên tục phục kích đánh các đoàn xe vận tải chở vũ khí trang bị. Ngày 19 tháng 4, diệt 5 xe GMC, 1 xe M-113; ngày 20 tháng 4, loại khỏi vòng chiến đấu 2 trung đội hành quân trên 6 xe chở quân; ngày 21 tháng 4, diệt thêm 108 lính cùng 1 xe tăng và một số xe vận tải.
Cuối tháng 4 năm 1968 quân Mỹ buộc phải kết thúc cuộc hành quân "Ngựa bay" và "Lam Sơn 207” khi ý định giải tỏa Khe Sanh chưa thực hiện được. Tuy vậy, các cuộc hành quân của Mỹ đã đẩy được một số mũi vây lấn ra xa, chiếm được một số khu vực chốt quan trọng ở khu vực xung quanh Khe Sanh, gây thiệt hại nhiều về quân số và trang bị vũ khí kỹ thuật cho đối phương. Nguy cơ Khe Sanh bị tiêu diệt hoàn toàn như ĐIện Biên Phủ đã được tháo gỡ.
Về phí QĐNDVN, sau khi Mỹ kết thúc cuộc hành quân "Ngựa bay", các đơn vị cũng bắt đầu giai đoạn 4: khôi phục thế vây lấn để tạo sức ép buộc Mỹ phải rút bỏ Khe Sanh
[sửa] Đợt 4
Ngày 4 tháng 5, QĐNDVN bất ngờ tập kích điểm cao phòng ngự 552 của Mỹ, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội kỵ binh không vận, một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly và 9 khẩu cối 106,7 ly. Cùng thời gian, ở hướng tây và tây bắc Khe Sanh, Trung đoàn 66 thực hành bao vây kiềm chế các điểm cao 832, 689. Ở hướng đông nam Trung đoàn 9 tiến công áp sát Làng Khoai, tổ chức đánh bại một mũi phản kích của Mỹ, bắn rơi 3 máy bay trực thăng và tiêu diệt, làm bị thương nhiều lính Mỹ.
Trên tuyến đường 9 liên tục trong các ngày 14 và 15 tháng 5, QĐNDVN đã tổ chức một số trận tập kích ở nam Làng Khoai, diệt nhiều xe vận tải và sinh lực, gây khó khăn cho việc tiếp vận cho Khe Sanh của quân đội Mỹ.
Trong khi các Sư đoàn 304 và 308 đẩy mạnh hoạt động ở Tà Cơn, đường 9, Sư đoàn Đồng Bằng cũng vừa chiến đấu tạo thế liên hoàn trên cánh đông vừa nghiên cứu quy luật hoạt động trên sông và cách bố phòng bảo vệ cảng Cửa Việt của, chuẩn bị cho đợt tác chiến đánh tàu trên sông Cửa Việt. Do sự chuẩn bị chu đáo và sử dụng hỏa lực ĐKZ, cối 82 ly, B-40, B-41, trọng liên 12,7 ly... một cách linh hoạt, QĐNDVN đã đánh chìm được nhiều tàu chở hàng của Mỹ trên sông Cửa Việt. Tiêu biểu nhất trong đợt hoạt động tháng 5 của sư đoàn 320 là trận đánh trên khu vực bãi cát Cửa Việt chiều ngày 2 tháng 5, tiểu đoàn 3, tiểu đoàn 6 phối hợp cùng pháo binh và các đơn vị bộ đội địa phương đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 2 trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ.
Bộ chỉ huy sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đã đưa trung đoàn 4 (thiếu 1 tiểu đoàn), tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 tổ chức hành quân giải tỏa Khe Sanh lần thứ 2 với mật danh "Scotland II" để kéo giãn đột hình vây lấn của QĐNDVN, tạo điều kiện cho ý định rút bỏ Khe Sanh. Đến ngày 18, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ đã quyết định "bốc hết lực lượng rải rác ở các điểm cao Kơ Long, Pa Trang, 635... đưa về tăng cường cho đường 9, Nam Tà Cơn và Đông Hà, Cửa Việt". Đây cũng là thời điểm Mỹ kết thúc cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh lần 2 - mang tên "Scotland II" mà không thu được nhiều kết quả. Sau 1 tháng chiến đấu, QĐNDVN ghi nhận đã diệt hơn 1.000 quân Mỹ, 11 máy bay các loại bị phá hủy và bắn rơi, 7 khẩu pháo và cối bị phá hủy, phá hỏng, tiểu đoàn 3 trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ bị đánh thiệt hại nặng.
Cuộc hành quân "Scotland II" kết thúc, lực lượng Mỹ ở Khe Sanh còn lại 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, trong đó một bộ phận rải rác dọc đường 9 để bảo vệ cho tiếp tế Khe Sanh và bảo đảm yểm hộ kịp thời, hiệu quả cho việc rút lui của lính Mỹ ra khỏi Khe Sanh khi cần thiết. Ngày 26 tháng 6, Đại tướng Abram - chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam đã ra lệnh: Rút bỏ Khe Sanh.
Tuy cuộc rút quân được sắp đặt rất bài bản, nhưng nhiều đợt rút quân của Mỹ vẫn bị QĐNDVN phát hiện và tổ chức chặn đánh. Trung đoàn 246 liên tục tổ chức đánh Mỹ rút chạy trên hướng tây, nhưng do lực lượng quá mỏng nên chỉ đánh được nhóm bọc hậu sau cùng, không đánh được vào quân chủ lực nên không phá vỡ được đội hình rút lui. Trên hướng Nam, Trung đoàn 102 đã rút về tuyến sau củng cố, Trung đoàn 88 cũng triển khai lực lượng đón đánh quân Mỹ trên hướng đường 9, nhưng cũng chỉ đánh được bộ phận bảo vệ mà không đánh được đội hình rút quân chính. Riêng lực lượng pháo binh Mặt trận đã tổ chức chặn đánh rất hiệu quả vào sân bay Tà Cơn và chặn đánh trên đường bộ gây cho quân Mỹ nhiều thiệt hại về lực lượng và vũ khí, phương tiện chiến tranh.
Do những hoạt động tích cực của QĐNDVN nên cuộc hành quân rút khỏi Khe Sanh của Mỹ phải kéo dài gần 20 ngày, đến ngày l5 tháng 7 năm 1968 quân Mỹ mới rút hết quân về tập trung ở Cà Lu - Tân Lâm. QĐNDVN đã làm chủ đường 9 đoạn từ Lao Bảo đến sát Cà Lu (trừ cứ điểm Động Trị), giải phóng toàn bộ khu vực Khe Sanh - một địa bàn chiến lược quan trọng ở phía tây đường 9. Quân nhân Mĩ cuối cùng rút khỏi khu vực vào 25 tháng 7, trước đó ngày 9 tháng 7 năm 1968, lá cờ Quân giải phóng đã được cắm trên cột cờ sân bay Tà Cơn.
Trong gần 20 ngày chặn đánh quân Mỹ rút lui, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 đã phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ được ghi nhận đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.333 lính Mỹ, bắn rơi, phá hủy 34 máy bay, 5 khẩu pháo, cối và 5 xe vận tải.
[sửa] Điện Biên Phủ thứ hai
Sở dĩ Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh được mệnh danh là "Trận Điện Biên Phủ thứ hai" vì giữa hai trận đánh này có những điểm tương đồng:
- Thứ nhất, cả Khe Sanh và Điện Biên Phủ đều tiếp giáp với biên giới Việt - Lào. Khe Sanh cách biên giới Việt - Lào chừng 20km, còn Điện Biên Phủ chỉ cách khoảng 8km.
- Điểm tương đồng thứ hai là địa hình đều hiểm trở, khó tiếp cận. Chỉ có thể tiếp cận Điện Biên Phủ bằng đường không. Đối với Khe Sanh, ngoài việc tiếp cận bằng đường không, còn có thêm cách tiếp cận bằng đường bộ thông qua con đường 9.
- Về tính chất của cả hai trận đánh lúc bấy giờ đã trở thành tâm điểm chú ý của báo chí và các cơ quan công luận khác. Đối với quân địch cả hai trận đều có bài học giống nhau, đó là sự thất bại.
Sau khi rút bỏ Khe Sanh, tưởng như mọi việc đã xong, nhưng rồi Nhà Trắng lại chao đảo lần nữa vì Khe Sanh. Ngày 24-6, phóng viên John Carol của tờ Mặt trời Baltimore đã loan tin Bộ chỉ huy Mỹ “vừa buộc phải rút bỏ Khe Sanh, một căn cứ quân sự được (Mỹ) phòng thủ với một giá đắt, do vị trí rào cản có tính sống còn của nó ở dưới khu giới tuyến”. Bộ chỉ huy Mỹ mập mờ phủ định tin này, nhưng John Carol khẳng định “Các thủy quân lục chiến biết việc này, người Bắc Việt Nam biết việc này, chỉ có nhân dân Mỹ là không biết. Mặc dù Bộ chỉ huy Mỹ giải thích việc này (bỏ Khe Sanh) là do những yêu cầu về quân sự đặt ra, nhưng miền Bắc cho đây là thất bại nghiêm trọng nhất cả về chiến thuật lẫn chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh này”.
Theo báo cáo dành cho tổng thống 25 và 26-6-1968, các cố vấn tổng thống đã phải nhanh chóng ra tay. Một là, họ thuyết phục hãng tin Mỹ tầm cỡ toàn cầu AP đừng đưa tin của Mặt trời Baltimore. Hai là, họ đã dự thảo để MACV ra một tuyên cáo. Cốt lõi cho tuyên cáo này là, quân Mỹ phải bỏ Khe Sanh chỉ vì “do địch đã thay đổi chiến thuật”.
Tác động của Mỹ rút bỏ Khe Sanh đối với công luận được Peter Bush đánh giá như sau: “Tướng A-bram ra lệnh giữ bí mật chuyện đóng cửa căn cứ càng lâu càng tốt. Đến khi chuyện này buộc phải công bố chính thức, chỉ một lượng thông tin nhỏ được cung cấp. Sự kiện bỏ Khe Sanh được công luận Mỹ nhìn nhận một cách “đầy ngờ vực và hoang mang”. Lầu Năm Góc ghi nhận việc công bố quyết định bỏ Khe Sanh là “một sứ mạng khó khăn về phương diện tuyên truyền”.
Mồng 7 tháng 7, tờ Thời báo New York đưa tin từ Hồng Kông, cho rằng người châu Á nhìn chung tin vào lý do Mỹ phải bỏ Khe Sanh mà đài Hà Nội đã đưa ra, và bác bỏ cách giải thích của Mỹ, theo đó việc bỏ Khe Sanh là do “tình hình về quân sự đã thay đổi”.
Không giống như một số trận đánh khác, Khe Sanh đã chiếm được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận ở Mỹ. 25 phần trăm thời lượng phim chiếu trên chương trình truyền hình buổi tối trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968 tường thuật tình hình ở Khe Sanh. Riêng kênh CBS, tỷ lệ này là 50 phần trăm. Viện Gallup đưa ra số liệu, cứ 5 người thì 1 vừa chuyển từ lập trường ủng hộ sang chống chiến tranh trong khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3. Vì thế, "cách tốt nhất để làm cho Khe Sanh khỏi gây ảnh hưởng xấu đối với công chúng Mỹ là bỏ căn cứ này”. Vậy là, Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.[18]
[sửa] Kết quả
Với Hoa Kỳ
Việc giữ vững căn cứ Khe Sanh có thể coi là một thắng lợi về mặt chiến thuật của Mĩ. Dù nhiều đơn vị bị thiệt hại nặng, song không có đơn vị lớn nào bị tiêu diệt hoặc bắt sống toàn bộ như Pháp ở Điện Biên Phủ. Song cái giá phải trả là không hề rẻ, với gần 7.500 thương vong chỉ trong 77 ngày (chưa kể thương vong trong 3 tháng sau đó), quân đồn trú tại Khe Sanh mất gần 1/2 quân số.
Cái giá quá đắt này khiến nhân dân Mĩ cảm thấy tức giận[19]. Hãng Reuter bình luận: "Khe Sanh được ghi vào lịch sử cuộc chiến tranh của Mỹ ở Nam Việt Nam như một nơi phải trả với giá đắt nhất bằng máu...".
Cùng với tác động của chiến dịch Tết Mậu thân, nhân dân Mĩ yêu cầu rút quân Mĩ về nước. Do đó, dù các cấp tướng lĩnh Mĩ muốn nhân cơ hội mở rộng căn cứ sang Lào, câu trả lời của Quốc hội là "Không"[19]
Cuối cùng, số phận của căn cứ được định đoạt khi các chính trị gia Mĩ không muốn đánh cược một lần nữa: Họ quyết định phá hủy và rút khỏi Khe Sanh, chấm dứt vai trò chiến lược của nó. Mĩ mở cuộc hành quân Scotland II tổ chức cho lính Mỹ rút khỏi Khe Sanh khi đó vẫn còn bị vây lỏng bởi 1 Sư đoàn QDNDVN. Quân Mĩ tiếp tục bị truy kích trên đường rút lui.
Quân nhân Mĩ cuối cùng rút khỏi khu vực vào 25 tháng 7, trước đó ngày 9 tháng 7 năm 1968, lá cờ Quân giải phóng đã được cắm trên cột cờ sân bay Tà Cơn
Với Quân đội Nhân dân Việt Nam
Trải qua 170 ngày đêm vây lấn Khe Sanh, QĐNDVN tuyên bố đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 3 TQLC và sư đoàn không vận số 1 Mỹ, diệt 11.900 quân Mĩ và VNCH (trong đó có hơn 10 ngàn lính Mỹ), phá hủy 197 máy bay, 78 xe tăng - xe thiết giáp, 46 khẩu pháo, 50 kho đạn, giải phóng một địa bàn rộng lớn phía tây tỉnh Quảng Trị với 1 vạn dân, phá vỡ một mảng tuyến phòng ngự thép ngăn chặn ở địa đầu Nam Việt Nam. Thông báo của Bộ tư lệnh Mặt trận QĐNDVN tuyên bố: “Sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục, vô cùng anh dũng và quyết liệt, quân giải phóng Mặt trận Khe Sanh đã chiến thắng oanh liệt, đập tan một ý đồ ngông cuồng và ngoan cố của giặc Mỹ tại chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, buộc chúng phải chịu thất thủ Khe Sanh" [20]
Khi xét về mục tiêu chiến dịch, QĐNDVN đã hoàn thành cả 2 mục tiêu, thậm chí đã hoàn thành mục tiêu thứ 3 là ép quân Mĩ rút khỏi Khe Sanh. Đây là cơ sở để QĐNDVN coi đây là một thắng lợi chiến lược to lớn. CHủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen: "...thắng lợi Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân, dân và cán bộ ta, góp phần vào thắng lợi to lớn của toàn miền Nam... mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa...". Sau chiến dịch, Sư đoàn 304 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì; các Trung đoàn đều được tặng thưởng Huân chương, 1.482 cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương; 2 đồng chí được tuyên dương Anh hùng LLVTND.[21].
Đây là lần đầu tiên QĐNDVN dàn quân ở cấp sư đoàn đối mặt với quân Mĩ. Tuy phải chịu nhiều thương vong do hỏa lực cực mạnh của Mĩ, đặc biệt là bom B-52 rải thảm, song họ cũng gây thiệt hại nặng tương đương cho các lực lượng tinh nhuệ bậc nhất của Hoa Kì là Thủy quân Lục chiến và quân biệt kích CIDG. Đây là thành tích đáng khích lệ đối với QĐNDVN, khi họ là bên tấn công và hoàn toàn lép vế về hỏa lực.
Với việc Mĩ bỏ Khe Sanh, Hàng rào điện tử McNamara coi như cáo chung. Kế hoạch chiến lược mà Mĩ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh coi như phá sản. Từ đây về sau, không còn căn cứ nào có thể uy hiếp trực tiếp tuyến đường cùng dòng hàng đưa ra tiền tuyến. Do đó có thể nói Trận Khe Sanh là bàn đạp cho các chiến dịch lớn của QĐNDVN sau này (chiến dịch Hạ Lào, chiến dịch Hè 1972...), và cuối cùng là chiến dịch quyết định Xuân 1975.
Bài viết Wikimapia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chiến_dịch_Đường_9_-_Khe_Sanh
Các thành phố lân cận:
Toạ độ: 16°39'16"N 106°43'38"E
- Thành Đồ Bàn - Vijaya 393 Km
- Koh Ker 396 Km
- Phòng tuyến Tam Điệp 396 Km
- Cố đô Sambor Prei Kuk 458 Km
- Vòng thành ngoại Cổ Loa 506 Km
- Thành Trung Cổ Loa 506 Km
- Khu di tích Gò Tháp 679 Km
- Khu di tích văn hoá Óc Eo 726 Km
- Khu di chỉ Văn hóa Óc Eo 734 Km
- Tanjung Pinang 1764 Km
- Xã Tân Hợp 2.3 Km
- Xã Tân Liên 4.4 Km
- Xã Hướng Tân 4.5 Km
- Xã Tân Lập 5.9 Km
- Xã Hướng Linh 7.4 Km
- Xã Đakrông 11 Km
- Xã Hướng Hiệp 14 Km
- Xã Hướng Sơn 15 Km
- Xã Cam Thành 25 Km
- Xã Cam Tuyền 28 Km
Nhận xét