Cù Lao tây

Vietnam / Dong Bang Song Cuu Long / Long Xuyen /

Cù lao Tây là một cù lao lớn giữa sông Tiền, án ngữ sông Vàm Nao (còn gọi là Thuận Cảng hoặc Thuận Giang) do phù sa bồi lắng tạo nên. Cù lao này có hình thoi, dài 16 km, bề rộng chổ phình to 4km, chu vi độ 42 km và có diện tích tự nhiên 8.835 hecta. Phía bắc cù lao đối diện với cù lao Ma (Châu Ma) và hai xã Phú An (thuộc huyện chợ Mới, An Giang) và An Long (thuộc huyện Thanh Bình, Đồng Tháp) Nằm hai bên bờ sông Tiền. Phía nam đối diện với hai xã Long Điền (thuộc huyện Chợ Mới, An Giang) và phía bắc đối diện xã Tân Thạnh (thuộc huyện Thanh Bình, Đồng Tháp).

Do hiện tượng phù sa bồi lắng tạo nên lớp đất giồng ven sông làm cho cù lao Tây trũng ở khu vực trung tâm, quanh năm thường xuyên ngập nước, là môi trường thiên nhiên thuận lợi cho việc hình thành các khu rừng ngập nước với nhiều tôm cá chim muông và các loài động vật hoang dã khác. Đến năm 1836, nên cù lao này còn có hai khu rừng ngập nước. Ngày nay, rừng không còn, chỉ có một số cây cỏ hoang dại mọc ở ven sông, đầu cồn, bãi hoang… Nơi đây hình thành một dòng chảy dọc theo gần hết chiều dài cù lao, được gọi là rạch Mã Trường.

Theo các bô lão thì mấy năm trước, nhánh phía đông cù lao của sông Tiền rất hẹp, hai bên chỉ cách nhau một tiếng hú gọi đò. Do nước phía thượng nguồn cù lao đổ dòng chảy làm bờ sông trên cù lao bị sụp lở liên tục, dòng sông ngày một rộng ra. Con đường xuyên qua hai xã Tân Quới và Tân Long tính đến nay đã bốn di dời vào trong. Như vậy, có thể ước tính bờ sông phía này đã sụp lở mất đi khoãng gần 400 mét.

Với tên là Cù lao Tê được ghi vào sách Gia Định thành công chí của Trịnh Hoài Đức, quyển sách địa dư chí đầu tiên của Nam kỳ:

“Cù lao Tê ở thượng lưu Tiền Giang, có thôn Tân Hưng ở đấy. Cù Lao Lộc ở phía đông, cù Lao Nghĩa ở phía tây, cù lao Trư ở phía bắc, cù lao Đao ở phía nam: hình như hoa mai vậy. Nơi đây tre xinh tốt, làm chổ sào huyệt cho loài cầm thú”.

Sách này được viết xong vào khoảng năm 1820, nên tất cả các địa danh được đưa vào đều được hình thành trước đó khá lâu. Đều này cho phép ta suy đoán rằng, vào cuối thế kỷ XIX cù lao Tây ngày nay còn gọi là bốn cù lao riêng lẻ: cù lao Trư ở phía bắc (bao gồm một phần của Tân Quới và Tân Hòa), cù lao Nghĩa ở phía đông (bao gồm một phần của Tân Quới và một phần của Tân Bình), cù lao Lộc ở phía tây (trọn xã Tân Huề) và cù lao Đao ở phía nam (gồm toàn bộ xã Tân Long và một phần xã Tân Bình). Qua năm tháng khoảng cách giữa các cù lao được phù xa bồi lắng kết liền nhau thành một cù lao lớn như ngày nay. Mấy năm sau, trong cuộc đo đạt địa chính vào năm Minh Mạng thứ XVII (1836), được ghi gõ trong địa bạ thôn Tân Hưng:

“Tân Hưng thôn, ở bốn xứ Tê Châu, Trư Châu, Tân Bồi Châu và Tiểu Châu…”

Cho thấy lúc bấy giờ trên cù lao Tây có một thôn duy nhứt, được thành bởi bốn xóm (xứ) mang tên theo bốn cù lao trước đó, xong đã đổi tên hết ba, chỉ còn Trư châu (tức cù lao Heo). Cù lao Lộc trở thành cù lao Nhỏ (Tiểu Châu), còn gọi là Cồn Voi, trên cồn này là ấp Tiểu Châu (nay thuộc xã Tân Hòa), cù lao Nghĩa thành Tân Bồi Châu (tức là mới bồi) và cù lao Đao (còn gọi là Hòa Đao) thành Tê Châu (cù lao có hình đầu con Tê giác, cũng gọi là con Tây).

Về tên gọi là địa danh cù Lao Tây, đến nay các cụ lớn tuổi còn nhắc câu: “Đầu Tây, mình Ngựa, đuôi heo, đít lửa”:

Ghi nhận này đã phản ánh phần nào khả năng sáng tạo ngôn ngữ, góp phần làm phong phú thêm phương ngữ Nam Bộ. Do sông Tiền là thủy lộ chiến lược trọng yếu từ Cao Miên xuống, từ Hậu Giang qua theo ngã sông Thuận Giang (sông Vàm Nao), đầu cù lao Tây lại nằm án ngữ trước Vàm Nao. Nên ngay từ thời chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765), Nguyễn Cư Trinh đã cho dựng: đạo thủ Tân Châu trị sở đóng tại thôn Mỹ Hưng ở đầu cù lao Gieng (tên chữ hán là Dinh Châu), thủ Chiến Sai (do âm Khmer Kien Srai có nghĩa là cây xoài) nằm trên bờ sông Vàm Nao, gần vàm rạch Ông Chưởng (thuộc thôn Tú Điền nay là xã Kiến An, huyện chợ Mới, An Giang), hiện cón dấu vết nền đồn cũ Chiến Sai hay Cựu Chiến Sai), còn thủ Hùng Ngự thì đóng tại vàm Đốc Vang. Như vậy, cù lao Tây nằm giũa ba thủ này, một vị trí tiền tiêu, chiến lược quan trọng trong công cuộc bảo vệ biên giới Tây Nam, có tác dụng ngăn chận giặc sâm nhập bằng ngã sông Tiền, nên ngay sau chiến thắng quân sâm lược Xiêm trên sông Vàm Nao, năm 1834, vua Minh Mạng cho xây dựng hai bên bờ sông Tiền hai pháo đài cho nên để tiện việc vừa canh phòng vừa ngăn chận giặc.Pháo đài nằm bên tả ngạn mang tên Toàn thắng đài, bên hữu ngạn mang tên Phá Địch Đài. Phá Địch Đài tọa lạc trên mõm doi (đuôi) cuối cù lao Tây. Đêm đêm lính canh đốt lửa để quan sát canh phòng, nên có địa danh Doi Lửa. Trong Nhất thống địa dư còn ghi:

“Ở giữa sông là Dinh Châu (tức cù lao Gieng), có chính thủ Tân Châu; phía bên hữu châu ấy có rạch Đốc vàng tức là Hưng đạo thủ (thuộc địa giới tỉnh Định Tường), cùng Chiến Sai thủ đạo đều thuộc về đạo Tân Châu cai quản. Ba đạo này là phòng bị kẻ giang tế, coi thu thương thuế và kiểm soát gian thương, nơi đây chính là chỗ yết hầu vậy”.

Đến nay vẫn còn có người gọi là Dao Lửa; chắc do nguyên thủy làng Tân Long vốn là cù lao Đao trước đây, chữ Đao âm Hán Việt còn đọc là Dao.

Khi công cuộc khai hoang thành công bước đầu, vào đầu thế kỷ XIX trên cù lao Tây hình thành thôn Tân Hưng. Theo bảng danh sách thôn mà Trịnh Hoài Đức lập khoảng năm 1820, thì thôn này thuộc tổng Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh. Trong cuộc đo đạc địa chính năm 1836, thôn Tân Hưng là một trong 11 thôn của tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Từ năm 1839 đến 1868, Tân Hưng là một trong 33 thôn của huyện Đông Xuyên (có 4 tổng), thuộc phủ Tân Thành (đóng tại Sa Đéc).

Sau năm 1867, thực dân Pháp chiếm toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh, đề tiến hành thống trị và khai thác thuộc địa, chúng phân chia lại các đơn vị hành chánh, tổ chức bộ máy cai trị. Đến nay chưa có tư liệu về thời điểm thôn Tân Hưng chia thành ba làng Tân Huề, Tân Quới và Tân Long; song với tư liệu hiện có cho thấy, vào thời điểm này, huyện Đông Xuyên từ 4 tổng với 33 thôn, tăng lên 6 tổng với 50 làng. Do đó, ta có thể cho rằng ba làng trên cù lao Tây ra đời vào khoảng năm 1868 và thuộc hạt tham biện Châu Đốc. Hạt (Arondissement hay Inspection) này hình thành trên cơ sở phủ Tuy Biên với hai huyện Đông Xuyên và Hà Dương. Đến năm 1876, hạt Châu Đốc lên đến 10 tổng với 91 làng. Ba làng Tân Huề, Tân Quới, Tân Long nằm trong tổng An Lương.

Đầu năm 1900, thi hành nghị định toàn quyền ngày 20/12/1889, thực dân Pháp đổi hạt thành tỉnh; toàn bộ Nam Kỳ có 21 tỉnh thành. Dưới tỉnh lập cấp quận, duy trì cấp tổng. Tân Huề, Tân Quới, Tân Long nằm trong tổng An Lạc (gồm 6 làng), quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Cai tổng đầu tiên là ông Lê Văn Vĩnh (người làng Tân Long).

Năm 1929, thực hiện nghị định ngày 19-12-1929, thực dân Pháp lập thêm quận Hồng Ngự ở tỉnh Châu Đốc, tách từ 9 làng của tổng An Phước thuộc quận Tân Châu, là phần đất nằm ở tả ngạn sông Tiền. Được sự đồng tình của 3 làng Tân Huề, Tân Quới, Tân Long của tổng An Lạc, ông ban biện Lê Văn Lượm xin cho 3 làng này nhập vào quận Hồng Ngự và thành Cù lao Tây. Như vậy, lúc bấy giờ quận Hồng Ngự có hai tổng (An Phước và Cù lao Tây) với 12 làng; tình trạng này kéo dày đến ngày Nhựt đảo chánh 9-3-1945.

Sau đó, tổng Cù lao Tây rơi vào sự kiểm soát của quân đội giáo phái Hòa Hảo. Trong kháng chiến chống Pháp, tổng Cù lao Tây tồn tại đến năm 1954, do ông Nguyễn Văn Hòa, người Tân Huề, làm chánh tổng.

Dưới thời Ngô Đình Diệm, tổng Cù Lao Tây nằm trong quận Thanh Bình, tỉnh Kiến Phong đổi tên thành tổng Thanh Liêm.

Về phía chánh quyền cách mạng, từ năm 1946 đến 1949, ta theo cách phân chia của địch. Từ năm 1949 đến 1951, Cù lao Tây thuộc quận Tân Hồng, tỉnh Long Châu Tiền, từ ngày 27-06-1951 đến tháng 07-1954 lại thuộc tỉnh Long Châu Sa. Sau đó ta theo cách phân chia hành chánh của địch cho đến năm 1974. Đến tháng 08-1974, tỉnh Long Châu Tiền ta tái thành lập, các xã cù lao Tây thuộc quận Thanh Bình của tỉnh này.

Đầu năm 1976, hai tỉnh Long Châu Tiền và Sa Đéc sáp nhập thành tỉnh Đồng Tháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, quận Đồng Tiến của tỉnh Kiến Phong, được ta đặt tên là Tam Nông lấy tên là huyện Tam Nông, Cù lao Tây thuộc huyện này cho đến năm 1981. Khi đó, ta lại tách ra thành hai huyện, Tam Nông, Thanh Bình, Cù lao Tây lại thuộc huyện Thanh Bình như trước cho đến nay.
Các thành phố lân cận:
Toạ độ:   10°38'6"N   105°23'28"E
Bài viết này được chỉnh sửa lần cuối 10 năm trước