Quảng trường Ngọ Môn (Thành phố Huế)
Vietnam /
Khu Bon Cu /
Hue /
Thành phố Huế
World
/ Vietnam
/ Khu Bon Cu
/ Hue
Sviets / Việt Nam / / /
quảng trường
Thêm thể loại
Có một bãi đất trống nằm giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài. Nói chính xác hơn, không gian ấy được giới hạn bởi đường 23 tháng 8 ở phía bắc, chân tường Kinh thành ở phía nam, con đường ngắn sau cửa Thể Nhân (thường gọi là cửa Ngăn) ở phía đông và con đường ngắn sau cửa Quảng Đức ở phía tây. Chiều bắc nam của nó rộng gần 125m và chiều đông tây dài khoảng 360m.
Trong khi qui hoạch và xây dựng Kinh thành và Hoàng thành vào đầu thế kỷ XIX, các nhà kiến trúc triều Nguyễn đã thiết lập không gian trống này một cách có ý thức: vừa tạo ra một khoảng cách thích hợp giữa mặt tiền Hoàng thành và mặt tiền Kinh thành, hay nói cách khác, giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài, vừa để cho triều đình có nơi để tổ chức một số cuộc đại lễ hoặc làm một số công việc cần thiết.
Không thấy triều đình bấy giờ đặt tên riêng chính thức cho quảng trường này. Chỉ thấy Nội các cho biết đây là nơi “Đại duyệt” (大 閲) hoặc nơi “Duyệt binh” (閲兵)(1), tức là khu đất mà triều đình dùng để tổ chức những cuộc diễn tập vào đầu xuân hàng năm của các đơn vị bộ binh, trong đó có sự duyệt khán của vua và các đình thần cao cấp.
Từ khi triều Nguyễn cáo chung vào năm 1945 đến nay, dân chúng địa phương Huế thường gọi nó một cách nôm na và dễ nhớ là “sân Cột Cờ”. Sở dĩ nói là “sân”, vì nó thường được dùng làm sân bóng đá, và gọi là “Cột Cờ”, vì khu đất này nằm sát chân Kỳ Đài, trên đó có cột cờ cao nhất nước (52,81m).
Trong những năm gần đây, giới báo chí gọi là khu vực ấy là “Quảng trường Ngọ Môn”, vì nó nằm ở trước mặt Ngọ Môn như trên đã nói. Dùng địa danh này xem ra là thích hợp hơn cả, vì Ngọ Môn cùng với Lầu Ngũ Phụng ở trên đó là một trong những công trình kiến trúc có giá trị nhất của Huế về các mặt lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, và đặc biệt nó là cái khán đài danh dự lý tưởng khi có cuộc lễ diễn ra ở quảng trường trước mặt nó.
Mỗi lần tổ chức lễ gì ở đây cũng có đông người tham dự. Lịch sử triều Nguyễn cho thấy rằng các cuộc lễ lớn từng diễn ra ở đây đều mang tính quốc gia, chẳng hạn như Lễ Truyền lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa), Lễ Ban sóc (phát lịch), Lễ Duyệt binh hàng năm, Lễ Tứ tuần Đại khánh tiết của vua Khải Định (năm 1924),, Lễ thoái vị của vua Bảo Đại (1945).
Tiếp tục sử dụng chức năng truyền thống đó, từ năm 1975 đến nay, chính quyền tỉnh thành sở tại đã tổ chức ở đây một số cuộc lễ long trọng có hàng vạn người tham dự.
Trong bộ sách “Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ”, Nội các Triều Nguyễn cho biết rằnng dưới thời Gia Long và đầu thời Minh Mạng, triều đình đã cho xây dựng ở hai bên quảng trường này 7 dãy nhà gồm 143 gian để che cho nhưng khẩu đại bác được đúc trong giai đoạn mấy chục năm ấy. Những dãy nhà bằng gỗ lợp ngói này đã được gọi tên là “Tả Đại Tướng Quân Xưởng”, “Hữu Đại Tướng Quân Xưởng”, “Thượng Tướng Quân Xưởng”, “Tả Trung Tướng Quân Xưởng”, “Hữu Trung Tướng Quân Xưởng”. Từ “xưởng” ở đây có thể hiểu nghĩa là nhà chứa súng.
Đến năm 1832, khi bắt đầu nâng cấp bộ mặt kiến trúc của Hoàng thành, vua Minh Mạng đã cho dời một số dãy nhà súng ấy vào dựng “ở bên tả bên hữu trước cửa Ngọ Môn”
Không thấy tư liệu nào cho biết rõ triều đình đã thiết trí bao nhiêu loại đại bác và bao nhiêu khẩu súng ở các dãy nhà súng hai bên Ngọ Môn. Nhưng, vào đầu thời Thành Thái (1889 - 1907), ở hai dãy nhà hai bên Ngọ Môn chỉ còn 9 khẩu “Thần oai Vô địch Thượng tướng quân “được đúc bằng đồng vào những năm 1803 - 1804 dưới thời Gia Long (5) (Về sau, 9 khẩu súng lớn này thường được gọi là Cửu Vị Thần Công). Bấy giờ, ở dãy nhà bên trái, người ta đặt 4 khẩu mang tên “tứ thời”: Xuân, Hạ, Thu, Đông; và ở dãy nhà bên phải là 5 khẩu mang tên “ngũ hành”: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Vào năm 1896, triều đình Thành Thái đã cho di chuyển 5 khẩu bên phải qua đặt chung với 4 khẩu bên trái thành một dãy 9 khẩu. Lúc đó, dãy nhà bên phải trở thành “Mã khái” (Nhà để ngựa), và dãy nhà súng bên trái được gọi là “Pháo xưởng” (6).
Đến tháng 6-1917, dưới thời Khải Định, Nam triều đã cho Bộ Công đứng ra tổ chức di chuyển 9 khẩu thần công ấy một lần nữa và lại chia thành 2 nhóm, đặt ở 2 vị trí mới: 4 khẩu Tứ thời đặt ở phía sau cửa Thể Nhân và 5 khẩu Ngũ hành đặt phía sau cửa Quảng Đức, và xây 2 ngôi nhà bằng gỗ lợp ngói để bảo quản chúng (7). Đó chính là vị trí của Cửu Vị Thần Công mà chúng ta đang thấy hiện nay.
Trong khi qui hoạch và xây dựng Kinh thành và Hoàng thành vào đầu thế kỷ XIX, các nhà kiến trúc triều Nguyễn đã thiết lập không gian trống này một cách có ý thức: vừa tạo ra một khoảng cách thích hợp giữa mặt tiền Hoàng thành và mặt tiền Kinh thành, hay nói cách khác, giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài, vừa để cho triều đình có nơi để tổ chức một số cuộc đại lễ hoặc làm một số công việc cần thiết.
Không thấy triều đình bấy giờ đặt tên riêng chính thức cho quảng trường này. Chỉ thấy Nội các cho biết đây là nơi “Đại duyệt” (大 閲) hoặc nơi “Duyệt binh” (閲兵)(1), tức là khu đất mà triều đình dùng để tổ chức những cuộc diễn tập vào đầu xuân hàng năm của các đơn vị bộ binh, trong đó có sự duyệt khán của vua và các đình thần cao cấp.
Từ khi triều Nguyễn cáo chung vào năm 1945 đến nay, dân chúng địa phương Huế thường gọi nó một cách nôm na và dễ nhớ là “sân Cột Cờ”. Sở dĩ nói là “sân”, vì nó thường được dùng làm sân bóng đá, và gọi là “Cột Cờ”, vì khu đất này nằm sát chân Kỳ Đài, trên đó có cột cờ cao nhất nước (52,81m).
Trong những năm gần đây, giới báo chí gọi là khu vực ấy là “Quảng trường Ngọ Môn”, vì nó nằm ở trước mặt Ngọ Môn như trên đã nói. Dùng địa danh này xem ra là thích hợp hơn cả, vì Ngọ Môn cùng với Lầu Ngũ Phụng ở trên đó là một trong những công trình kiến trúc có giá trị nhất của Huế về các mặt lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, và đặc biệt nó là cái khán đài danh dự lý tưởng khi có cuộc lễ diễn ra ở quảng trường trước mặt nó.
Mỗi lần tổ chức lễ gì ở đây cũng có đông người tham dự. Lịch sử triều Nguyễn cho thấy rằng các cuộc lễ lớn từng diễn ra ở đây đều mang tính quốc gia, chẳng hạn như Lễ Truyền lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa), Lễ Ban sóc (phát lịch), Lễ Duyệt binh hàng năm, Lễ Tứ tuần Đại khánh tiết của vua Khải Định (năm 1924),, Lễ thoái vị của vua Bảo Đại (1945).
Tiếp tục sử dụng chức năng truyền thống đó, từ năm 1975 đến nay, chính quyền tỉnh thành sở tại đã tổ chức ở đây một số cuộc lễ long trọng có hàng vạn người tham dự.
Trong bộ sách “Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ”, Nội các Triều Nguyễn cho biết rằnng dưới thời Gia Long và đầu thời Minh Mạng, triều đình đã cho xây dựng ở hai bên quảng trường này 7 dãy nhà gồm 143 gian để che cho nhưng khẩu đại bác được đúc trong giai đoạn mấy chục năm ấy. Những dãy nhà bằng gỗ lợp ngói này đã được gọi tên là “Tả Đại Tướng Quân Xưởng”, “Hữu Đại Tướng Quân Xưởng”, “Thượng Tướng Quân Xưởng”, “Tả Trung Tướng Quân Xưởng”, “Hữu Trung Tướng Quân Xưởng”. Từ “xưởng” ở đây có thể hiểu nghĩa là nhà chứa súng.
Đến năm 1832, khi bắt đầu nâng cấp bộ mặt kiến trúc của Hoàng thành, vua Minh Mạng đã cho dời một số dãy nhà súng ấy vào dựng “ở bên tả bên hữu trước cửa Ngọ Môn”
Không thấy tư liệu nào cho biết rõ triều đình đã thiết trí bao nhiêu loại đại bác và bao nhiêu khẩu súng ở các dãy nhà súng hai bên Ngọ Môn. Nhưng, vào đầu thời Thành Thái (1889 - 1907), ở hai dãy nhà hai bên Ngọ Môn chỉ còn 9 khẩu “Thần oai Vô địch Thượng tướng quân “được đúc bằng đồng vào những năm 1803 - 1804 dưới thời Gia Long (5) (Về sau, 9 khẩu súng lớn này thường được gọi là Cửu Vị Thần Công). Bấy giờ, ở dãy nhà bên trái, người ta đặt 4 khẩu mang tên “tứ thời”: Xuân, Hạ, Thu, Đông; và ở dãy nhà bên phải là 5 khẩu mang tên “ngũ hành”: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Vào năm 1896, triều đình Thành Thái đã cho di chuyển 5 khẩu bên phải qua đặt chung với 4 khẩu bên trái thành một dãy 9 khẩu. Lúc đó, dãy nhà bên phải trở thành “Mã khái” (Nhà để ngựa), và dãy nhà súng bên trái được gọi là “Pháo xưởng” (6).
Đến tháng 6-1917, dưới thời Khải Định, Nam triều đã cho Bộ Công đứng ra tổ chức di chuyển 9 khẩu thần công ấy một lần nữa và lại chia thành 2 nhóm, đặt ở 2 vị trí mới: 4 khẩu Tứ thời đặt ở phía sau cửa Thể Nhân và 5 khẩu Ngũ hành đặt phía sau cửa Quảng Đức, và xây 2 ngôi nhà bằng gỗ lợp ngói để bảo quản chúng (7). Đó chính là vị trí của Cửu Vị Thần Công mà chúng ta đang thấy hiện nay.
Các thành phố lân cận:
Toạ độ: 16°28'1"N 107°34'46"E
- Quảng Trường Hồ Chí Minh 317 Km
- Công viên Thi trấn 351 Km
- Quảng trường Hoàng đế Quang Trung 449 Km
- Quảng Trường Hoà Bình 538 Km
- khu quảng trường 587 Km
- Quảng trường Đền Hùng 595 Km
- Khu di tích lịch sử Ngã Ba Giồng 633 Km
- Phố đi bộ Nguyễn Huệ 641 Km
- Quảng trường 698 Km
- QUẢNG TRƯỜNG BIỂN PHÚ QUỐC 810 Km
- Phường Vĩnh Ninh 0.8 Km
- Kinh thành Huế 1.3 Km
- Phường Phú Hội 1.6 Km
- Phường Đúc 2 Km
- Phường Phước Vĩnh 2.2 Km
- Phường Trường An 2.5 Km
- Phường Xuân Phú 2.9 Km
- Phường An Cựu 3 Km
- Phường Thủy Xuân 3.8 Km
- Phường An Tây 5.5 Km