Làng Đào Thục

Vietnam / Dong Bang Song Hong / Ha Noi /
 làng, thôn  Thêm thể loại

Thuộc xã Thụy Lâm/ huyện Đông Anh/ thành phố Hà Nội
Ngôi làng nổi tiếng với nghệ thuật Múa Rối Nước dân gian - Nghệ thuật đặc sắc chỉ có ở Việt Nam
Để biết thêm thông tin chi tiết hãy truy cập website: www.roinuocdaothuc.com hoặc gặp anh Nguyễn Thế Nghi - Tel: 844.3882 0686; Mobile: 094 845 1973
Các thành phố lân cận:
Toạ độ:   21°11'2"N   105°52'59"E

Nhận xét

  • tu
  • LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH - CHÙA VÀ RỐI NƯỚC ĐÀO THỤC Làng Đào Thục xưa có tên là Đào Xá, đến thời Đồng Khánh (1886-1888) được đổi là Đào Thục. Đình Đào Thục tọa lạc ở một vị trí như hiện nay được xây năm 1735 do ông Đào tướng công bổ tiền xây dựng (trước đó thì chưa rõ vì không có tư liệu chính xác, nghe các cụ cao tuổi trong làng truyền lại thì Đình làng ban đầu ở phía Đông của làng). Ông Đào Tướng Công tên thật là Nguyễn Đăng Vinh (1659-1732), đỗ Tiến Sĩ năm Tân Mùi 1691 (lúc đó ông 33 tuổi) làm quan Nội Giám trong Triều Hậu Lê. Ông là người luôn dành nhiều tâm huyết để phụng dựng quê hương, xây dựng đất nước trở nên giàu đẹp. Đối với làng Đào Thục ông rất tâm huyết với quê hương, đã cùng dân làng đẩy mạnh sản xuất, phát triển nhiều ngành nghề, trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Tổ chức được các Phường như Phường Thầy, Phường Thợ, Phường Thó (Đóng Cối), Phường Võ và đặc biệt là Phường Rối. Ông Nguyễn Đăng Vinh có công lớn với dân làng nên khi ông qua đời đã được dân làng lập đền thờ ông lúc đầu ở giữa làng hướng về phía đông (đất nhà ông Bệ bây giờ). Ông đã biên soạn ra bản Hương Ước của làng, xây dựng và quy hoạch đường làng ngõ xóm vuông bàn cờ, trên bến dưới thuyền, do vậy mà làng Đào Thục từ lúc bấy giờ ngày một hưng thịnh phồn vinh, giàu có vào bậc nhất vùng, người dân hòa thuận đoàn kết tự hào với quê hương mình, nên có câu vè nói về con người nơi đây rằng: “Khó Kẻ Đầu hơn Giầu Hàng Tổng” Hay có thơ rằng: “ Đào Xá mở hội vui thay Bên Bắc có chợ, bên Tây có chùa Bên Đông có miếu thờ vua Bên Nam nước chảy đò đưa dập dìu ” Nơi đây được hội tụ bởi những người con gái vô cùng xinh đẹp, nết na hiền thục, nên có thơ ca ngợi về người con gái làng Đào Xá rằng: “Đào Xá có đất trồng bông, con gái ra đồng trông tựa tiên xa”. Truyền rằng con gái nơi đây xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng nhiều nơi biết đến, vì phụ nữ ở đây nết na hiền thục hay còn gọi là “thục nữ” nên tên Trang Đào Xá mới được đổi thành tên Đào Thục như ngày nay. Năm 1962 đình làng phải làm nhỏ lại vì hợp tác xã dỡ đình làm trụ sở, nhưng phần Hậu Cung của đình thì vẫn được giữ nguyên. Năm 1975 nước Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, nhân dân Đào Thục cùng đồng bào cả nước đẩy mạnh sản xuất, đời sống vật chất tinh thần được cải thiện và không ngừng nâng cao, các công trình văn hóa được dân làng quan tâm. Ngày 18 tháng 5 năm Giáp Tuất (1984) đình làng được làm lại lớn hơn trước đó (nhưng vẫn nhỏ hơn đình cũ được làm năm 1735) Đình làng thờ Thần Hoàng Tam Giang Đức Thánh Tam Giang là danh xưng gọi chung Trương Hống và Trương Hát, hai vị tướng được nhắc tới nhiều nhất dưới thời vua Triệu Quang Phục. Tên gọi Tam Giang xuất phát từ tên gọi mà các triều đại Phong kiến Việt Nam phong cho hai ông: "Tam Giang thượng đẳng thần". "Tam Giang" còn bắt nguồn từ cách gọi chung của ba con sông là sông Cầu, sông Thương, sông Đuống - nơi có nhiều đền thờ hai ông. Hai anh em ngài được đánh giá, đều là bậc tướng, chí dũng song toàn, "sinh vi dũng tướng, tử vi minh thần". Xuất thân Hai ông sinh ra trong một gia đình gồm năm anh em, bốn trai, một gái. Ba người còn lại là Trương Lừng, Trương Lẫy, và người con gái là Trương Đạm Nương. Năm anh em sinh ngày 15, tháng Giêng, năm Nhâm Ngọ (502), người làng Vân Mẫu, xã Vân Mẫu, huyện Quế Dương (sau là Võ Giàng), quận Vũ Ninh, xứ Kinh Bắc, (nay là thôn Hai Vân, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh). Mẹ là con gái họ Phùng, tên hiệu là Từ Nhan, sinh năm Quý Hợi 483 thời Tiền Lý Nam Đế. Năm Từ Nhan 18 tuổi, vào đêm rằm tháng một (theo cách gọi xưa, còn theo cách gọi hiện nay thì là tháng 11) năm Canh Thìn (500) bà nằm chiêm bao thấy Thần Long quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó bà mang thai. Sau 14 tháng mang thai, ngày 5 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (502) bà lên chùa lễ phật trở về đến xứ Cửa Cữu làng Vân Mẫu thì trở dạ, sinh ra một bọc 5 con. Người mẹ hết lòng chăm lo các con ăn học. Năm anh em là học trò của Tiên sinh Lã Thị người hương Chu Minh, lộ Bắc Giang (tức xã Hương Mạc, huyện Từ Sơn ngày nay). Anh em học đến đâu lầu thông kinh sử đến đấy, ngày ngày chăm đọc binh thư, siêng rèn võ nghệ, nên đều là những người tinh thông văn võ. Khi anh em 17 tuổi thì mẹ mất (ngày 15 tháng 4 âm lịch năm Kỷ Hợi 519) và 5 anh em đã táng mẹ tại xứ đồng Bãi Cả, hiếu thảo thờ mẹ 3 năm. Giúp Triệu Việt Vương đánh quân Lương Hoàn cảnh Năm 545 nhà Lương, đời vua Đại Đồng năm thứ bảy, cử tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược Việt Nam. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh nhưng vì quân ít không cản được giặc phải rút về miền núi động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phú) trao quyền cho tướng Triệu Quang Phục, rồi mất tại đó. Triệu Quang Phục đưa quân về đầm Dạ Trạch (Hưng Yên) đánh phục kích, đồng thời truyền hịch trong dân gian tìm người tài giỏi đánh giặc giúp nước. Hưởng ứng lời kêu gọi của Triệu Quang Phục Hai ông Trương Hống, Trương Hát nghe có hịch chiêu tài, anh em bàn nhau xin lệnh thầy, dụng kế lập thân, về quê mộ quân để đi giúp nước. Sau này các ông đến địa phận làng Tiên Tảo, huyện Kim Hoa, phủ Đa Phúc, lộ Bắc Giang thấy đất có thế ỷ giốc, tiến thoái lưỡng tiện có thể dụng binh liền cho quân hạ trại, làm tờ chiêu dụ nhân dân. Tờ rằng: "Đất nước Vạn Xuân ta đang thanh bình, càn nguyên hanh thái, bỗng đâu giặc Lương xâm lấn, xã tắc đảo điên, muôn dân khốn khổ. Bọn Hống-Hát chúng tôi xuất thân con nhà lam lũ, được học võ nghệ, có chút mưu cơ, dám đem sức lực người bản xứ, dấy binh cuốc cầy, địch cùng lang sói ngoại bang, giúp Triệu Việt Vương giữ an bờ cõi, dám mong chư vị bàn dân hưởng ứng nghĩa quân thì lấy làm may lắm".Phụ lão làng ấy tiếp tờ, thấy các ông dung dị khác thường, uy nghi đường bệ, thi đua nhau cho con cháu đi theo làm quân sỹ. Trận đầm Dạ Trạch Triệu Quang Phục được tin, sai sứ lên phong Trương Hống làm thượng tướng quân, Trương Hát làm phó tướng quân, Lã tiên sinh làm quân sư, Trương Lừng, Trương Lẫy làm tỳ tướng, Đạm Nương làm hậu binh lương và lo kế sách phản công. Đúng kỳ thúc giáp, hai phía cùng truyền lệnh quân cơ, tỏa binh tiếp trận, quân Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch tiến lên, quân Hống-Hát ở Tiên Tảo kéo xuống, thủy bộ bốn mặt giáp công, xung đột tung hoành đánh rất dữ dội. Quân Lương không sao chống cự nổi, đại bại rã rời, số chạy dẵm đạp lên nhau, chết hại nhiều vô kể, số bị bắt mặt mày tái mét, run rẩy van xin, chánh tướng Trần Bá Tiên tử trận, phó tướng Dương Phiêu phải thu nhặt tàn quân rút về Bắc quốc.Dẹp xong giặc rồi, khải hoàn tấu tiệp, Triệu Việt Vương kéo quân về Long Biên sang sửa đô thành.Nước nhà độc lập, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, phong thưởng cho các tướng có công đánh giặc. Vua Triệu phong thực ấp cho hai anh em họ Trương ở Kinh Bắc, Trương Hống ở làng Tiên Tảo, huyện Kim Anh (nay là thôn Tiên Tảo, xã Việt Long, huyện Sóc Sơn), Trương Hát ở làng Tam Lư, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Tam Lư, Từ Sơn, Bắc Ninh) là nơi dấy binh cũ. Tôi trung chẳng thờ hai vua Được tin Triệu Quang Phục lên ngôi vua, Lý Phật Tử (người họ Lý Nam Đế) đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con. Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt Vương đừng gã Cảo Nương cho Nhã Lang. Nhưng Triệu Quang Phục không nghe, mắc mưu của Lý Phật Tử, rồi bị đánh úp. Lý Phật Tử lên ngôi vua tự xưng là Hậu Lý Nam Đế và biết các ông là tướng tài giỏi bèn cho người vời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân không theo Lý Phật Tử, thưa lại rằng: Tôi trung chẳng thờ hai vua, gái trinh chẳng đổi hai chồng, huống hồ ngươi là người bội nghĩa mà còn muốn khuất cái tiết bất di dịch này ư? Biết không thể khuất phục được, Lý Phật Tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông trốn vào ở núi Phù Long; Nam Đế nhiều lần cho người đến truy nã không được, mới treo ngàn vàng cầu người bắt. Các ông bàn nhau cùng đem gia quyến xuôi dòng sông Cầu, uống thuốc độc để giữ trọn tấm lòng trung với vua. Nhân dân dọc theo sông Cầu và các nơi các ông từng đóng quân đánh giặc đã vô cùng khâm phục, thương tiếc, lập đền thờ làm Thần. Tam Giang là tên gọi chung của hai tướng Trương Hống và Trương Hát. Hiện nay đình làng thờ ba vị thần, ngoài đức thánh Tam Giang, còn có đức thánh Đương Giang và Phi Nương Hoàng Hậu. Trước đây hai vị thần là Đương Giang và Phi Nương Hoàng Hậu có đền thờ tại Nghè Đào Thục. Năm 1951 quân giặc phá mất đền nên dân làng rước hai vị về thờ tại đình làng. Ngày xưa hàng năm cứ đến ngày hội làng 12 tháng 11 dân làng có tục lệ rước hai vị thần ở Nghè về đình làng và mở hội, ngày 15 tháng 11 hết hội lại rước hai vị về Nghè, do vậy làng mới có “đường riêng thần” ở ven chùa Thánh Phúc khu “Đồng Giai” ven làng. Ngày nay lệ rước đó không còn vì hai vị thần đã được thờ tại đình làng. Truyền thuyết về bài thơ Thần lần hai nói về Thánh Đương Giang: Xét Sử ký của Đỗ Thiện chép thời Nam Tấn Vương nhà Ngô đi đánh giặc Lý Huy ở Long Châu (Tây Long), đóng quân ở cửa Phù Lan (sông Lục Đầu), đêm ngủ mộng thấy hai người y quan kỳ vĩ, diện mạo khôi ngô, đến xin tòng quân trợ chiến. Sau khi Thần kể hết sự tình lúc sống theo Triệu Quang Phục đánh giặc, chết được Thượng đế thương vô tội chết chẳng phải mệnh, phong làm Thủy thần, thống lĩnh tướng các âm binh, hiệu là Thần Giang Đô Phó Sứ, đã từng trợ thuận Ngô Quyền trong chiến dịch Bạch Đằng vua tỉnh dậy, bảo đem cỗ rượu đến điện tế, khấn rằng: Quả có anh linh, hãy phù trợ chiến dịch này, nếu được thắng lợi, tức thì dựng miếu và phong tước, hương hỏa đời đời. Lại hôm khác, vua mộng thấy hai Vương đốc binh, bộ ngũ liên thuộc đều có mặt mày như quỷ thần cả, hàng ngũ rất nghiêm, bộ lạc rất chỉnh tề hội tại cửa Phù Lan. Binh ông anh đóng từ sông Vũ Bình đến sông Như Nguyệt tiến đến đầu nguồn sông Phú Lương; Binh ông em đi từ men sông Lạng Giang vào sông Nam Bình (sông Thương). Vua tỉnh dậy bảo với tả hữu, quả nhiên trận ấy được toàn thắng. Bình xong giặc Tây Long, vua sai Sứ chia chỗ lập đền thờ, đều phong làm Phúc Thần một phương, chiếu phong anh là Đại Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Như Nguyệt (cửa sông Cà Lồ, Ngã ba Xà, chỗ sông Cà Lồ đổ ra sông Cầu). Còn em là Tiểu Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Nam Bình (cửa sông Thương). Đức Thánh Đương Giang là một vị Thần cõi âm, lúc sống ở dương gian là vị tướng tài của Triệu Quang Phục, bị chết oan uổng được Thượng đế phong làm Thủy thần thống lĩnh các tướng “âm binh” luôn theo ngầm trợ giúp triều đình. Nam tướng Đương Giang trong bản ngọc phả tại đình làng Đông Lai- Xã Quang Tiến - Huyện sóc sơn - Tp.Hà Nội. (Bản Ngọc Phả được làm bằng gỗ Dài 1,8 mét, cao 60cm. Ghi 1.700 chữ Hán) – chưa được sách sử nào nhắc đến đến được dịch ra rằng: Một vị Đại Vương hai vị âm thần thuộc triều đại Hai bà Trưng. Đời xưa Vua Hùng Thánh Tổ ứng vận trên hai nghìn năm núi xanh muôn dặm, xây dựng cơ đồ, nước biếc một dòng, mỗ đương thánh đế. Chăm vạn  người chia thành mười năm bộ. Đấy là Triệu tổ của người  Bách- Việt ta vậy đến cuối đời nhà Hùng. Trăm đời núi sông, trưm thần khả năng xuất thế  đầu thai vào các nhà dân để làm con, bấy giúp nước nuôi dân. Nhà nào có phúc thì gặp được.    Truyền rằng : Đời Vua Hùng thứ mười tám dân trời đã hết. Trải qua các triều  Trung Hoa ngự trị. Như nhà Đông, Tây Hán hơn vài trăm năm, đến đời Hai Bà Trưng, có người ở làng Sầm – Sơn, huyện Anh Sơn, Phủ Kinh  Môn đạo Hải Dương là Họ Phùng Húy Thắng, thê Phạm Thị phương, là người lấy nghề đánh cá sinh nhai. Tuy nghèo nhưng hay làm điều có nghĩa. Việc hay tuy nhỏ cùng làm. Điều ác một chút không động, Không bao giờ nghĩ  đến điều gì hại người, một  chút lợi cho mình không để tâm đến. Nhân dân  trong vùng  ấy đều khen là nhà ấy hay làm điều lành thế ắt có phúc thừa. Thì đấy vợ chồng đánh cá để sinh sống, dần dần giàu có, đến khi ông đã năm mươi tuổi, bà hơn bốn mươi mà chưa có con trai cho nên thường buồn phiền mà than rằng. Núi vàng bể thóc khinh như cỏ rác, con hiếu cháu hiền quý hơn vàng ngọc. Ông bà bèn háy cứu giúp  người nghèo đói, rồi  sửa soạn một chiếc thuyền cả hai ông bà theo dòng sông Nguyệt mà đi. Đi đến đạo Kinh Bắc, Phủ Hà – Bắc(Sau gọi là phủ thiên phúc), Huyện Kim hoa, khu vai sái (sau gọi là trang Xuân - Bách), đi được nửa ngày mới ra đến một sông nhỏ chợt thấy trời tối tăm, ban ngày như đêm, một trận gió dũ nổi dậy, làm vợ chồng ông bị ngã, ngửa mặt lên trời chợt  thấy  một đám mây đẹp, hướng về họ Phạm mà xuống. Hai vợ chồng ông bèn chạy vào trong miếu ẩn. Trông lên trên miếu thấy  có  chữ “Tối Linh Thủy Cung” ở trước cửa miếu. Ông bèn ngầm khấn khứa, trị nhiên thấy trên miếu có 1 ánh hào quang quấn quanh mình họ Phạm. Bà Phạm Thị sợ hãi, nằm thiếp đi mơ màng, mơ thấy một chàng nam nhi từ đường xá đị lại xưng là Thủy Thần vâng lệnh thiên đình đầu thai làm con. Được một lúc  thì bà Phạm Thị tỉnh dậy, sắc trời đã sáng dần. Bà Phạm lấy làm việc lạ bèn bảo Chồng. Chồng Thầm nghĩ cho là điều lành. Ông bèn xuống thuyền quay về nhà, thấy bà Phạm Thị như có thai. Đến năm giáp thìn, tháng tám ngày mồng mười sinh ra  một người con trai. Thiên tử tốt đẹp, tướng mạo khác thường . Ông cho rằng là Vị Thủy Thần xuất thế hun đúc nên đặt tên là ĐƯƠNG GIANG.. Các cụ cao lão trong làng Đào Thục có ghi chép và truyền lại rằng: Đức Thánh Đương Giang (Thần Phả xưa do ông Đại Học Sĩ soạn thảo) truyền rằng năm 1572 mẹ Thánh Đương Giang là Đào Thí Hoa Long sinh ra ông ngày 13 tháng 11 năm Quý Tỵ, Giang chóng lớn như thổi lại thông minh giỏi võ được Vua Đinh Tiên Hoàng cho cầm quân đánh giặc Ngô. Ông mang 5 nghìn quân đi đánh giặc, đến Nghè Đào Xá (Đào Thục) thì đoàn quân của nhà vua nghỉ lại lập đồn ở đó, nghè Đào Thục có địa thế cũng rất hiểm trở của việc tập kết thuyền bè, trên bến dưới thuyền rất thích hợp cho việc phòng thủ tập hợp thủy binh bảo toàn lực lượng, lúc bấy giờ có hơn 30 thanh niên trai tráng làng Đào Xá cũng hăng hái tham gia phục vụ và theo hầu đoàn quân triều đình đi đánh giặc. Lại nghe nói vào một đêm tại đây ông nằm mơ thấy một người con gái đẹp lộng lẫy, mặc quần áo chỉnh tề tự xưng là Phi Nương Hoàng Hậu và nói: “Ông cầm quân đi đánh giặc tôi sẽ phù ông, sau này thành công thì đồng hưởng”, và quả thật sau đó ông đã đánh tan quân Ngô, chém đầu tướng giặc, sau khi thắng giặc ông nói: “Tôi qua đời nếu thờ tôi thì cũng thờ cả Phi Nương Hoàng Hậu”. Ngày mồng 10 tháng tư ông “hóa” từ đó ông được triều đình phong thánh và cho xây dựng đền thờ ở những nơi ông trú chân, dân làng Đào Xá cũng được lập đền thờ ông tại Nghè, thờ luôn hai vị thần Đương Giang và Phi Nương Hoàng Hậu. Một số sắc phong Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu (Trần Nhân Tông), sắc phong Như Nguyệt Khước Địch Đại Vương, năm thứ tư gia phong Thiện Hựu Dũng Cảm. Các triều vua về sau: Trần, Lê đem quân đánh giặc phương Bắc tại dòng sông Cầu đều được Thần âm phù đánh thắng và đều có sắc phong cao nhất cho Thần là "Tam Giang thượng đẳng thần". Nơi thờ Có 372 làng (con số thực tế có thể còn nhiều hơn, trước đây được ghi nhận là 290 làng) tôn thờ Đức Thánh Tam Giang, thuộc 5 tỉnh, 16 huyện thị ven các triền sông Cầu từ Đu Đuống (Thái Nguyên), qua Ngã Ba Xà (Tam Giang - Yên Phong), rồi tới Lục Đầu Giang (sông Cầu dài 290 km, như vậy trung bình cứ 1 km lại có một làng thờ). Một số nơi tiêu biểu gồm: Đền chính thờ Trương Hống ở làng Vọng Nguyệt (còn gọi là Thôn Đoài) (xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh - đất hiếu học với 8 vị đỗ đại khoa thời Phong Kiến), cạnh làng Như Nguyệt (quê Hứa Tam Tỉnh). Đền Xà, tương truyền là nơi thờ hai vị Trương Hống, Trương Hát, đọc bài thơ thần lần thứ hai - đã được tu bổ lại. Trước cửa đền Xà, năm 2000 Nhà nước Việt Nam đã xây dựng một nhà bia hình tứ giác hai tầng mái. Bên trong dựng một tấm bia lớn đặt trên mình con rùa. Đầu rùa đặt một bình hương. Mặt trước bia nhìn vào đền khắc bài thơ Thần bằng chữ Hán. Mặt sau, phần trên dịch âm, phần dưới dịch nghĩa bài thơ Thần. Đền thờ chính Trương Hát ở làng Phượng Nhỡn ở cửa sông Thương. Cụm di tích về quê hương Thánh Tam Giang tại phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh: nghè Chu Mẫu tương truyền nơi thờ Thánh Tam Giang, nhà cố trạch tương truyền là nhà ở thuở nhỏ của các Thánh và đặc biệt là Đền Vân Mẫu. Năm 1989, khu lăng mộ được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2005, Vân Dương đã tổ chức xây dựng lại đền trên cơ sở những nghiên cứu của ngành văn hóa về kiến trúc. Đền Thọ Đức - Can Vang. Quá trình nghiên cứu giúp chúng ta rút ra những kết luận sau: Lịch sử vùng đất, sự giao thoa tiếp biến văn hóa giữa nhân dân trong một không gian địa lý với đầy ưu đãi thách thức của tự nhiên, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tín ngưỡng thờ cúng Thần linh cõi âm hoặc Thần Sông..vv phát triển mạnh mẽ, biểu hiện cụ thể chính là sự lan tỏa hệ thống danh xưng thần tích các Thần linh; di tích thờ tự, thờ cúng và lễ hội gắn với mỗi vị thần ấy. Tín ngưỡng thờ thần vùng ven sông Cà Lồ gồm nhiều lớp văn hóa chồng lấp lên nhau: Tục thờ Thần sông; Thần nữ ven sông; Thần cõi âm binh; Thờ mẫu; Tam phủ; Tứ Phủ; Điện thờ...vv theo nhiều các triều đại phong kiến khác nhau, Có nhiều triều đại không công nhận nhưng vẫn được nhân dân thờ phụng với niềm tôn kính, trân trọng vì mỗi vị thần đều có những thần tích riêng của mình. Cũng có nhiều triều đại đẩy mạnh tự do tín ngưỡng, mạnh mẽ nhất là các Vua triều Nguyễn gần đây về việc phong thần, chia thành ba nhóm: “Thượng đẳng thần; Trung đẳng thần; Hạ đẳng thần”. Qua các thần tích ấy mới thấy nhân dân ta có được tư tưởng dân tộc trong dòng chảy bất tận, từ ngàn xưa đến tận hôm nay, với mong muốn mỗi con người đất Việt luôn được che chở trong sự thiêng liêng của các đức Thánh thần. Đình làng Đào Thục được thờ “Thánh” không giống như một số đình làng chỉ có thờ “thần” nên đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Thành phố năm 1994. Đình làng nay vẫn còn giữ được 10 đạo sắc phong, sắc phong lâu nhất là của Vua Cảnh Hưng năm thứ 44 (1740-1786), gần nhất là thời Vua Khải Định (1916-1925). 10 SẮC PHONG TẠI ĐÌNH LÀNG ĐÀO THỤC Ngày 26 tháng bảy đời Lê (1740 – 1786) Hiệu Cảnh Hưng năm thứ 44 Ngày 24 tháng 11 đời Tự Đức năm thứ 33 Đời nhà Nguyễn Tự Đức thứ 50 sắc phong Đức Thánh Cả Ngày 16 tháng năm đời Tự Đức thứ 6 (1843-1848) sắc phong Thánh Tam Giang Ngày 25 tháng Mười Một Vua Thành Thái sắc phong Đức Thánh Hai Ngày 25 tháng Mười Một Vua Thành Thái thứ 6 (1889-1907) sắc phong Hoàng Hậu Đức Bà Ngày mồng 1 tháng Bảy Đồng Khánh năm thứ 2 sắc phong Đức Thánh Tam Giang Ngày 13 tháng 3 Vua Lê Chiêu Thống thứ Nhất (1787-1788) sắc phong Đức Thánh Hai Vua Lê Chiêu Thống thứ Nhất (1787-1788) sắc phong Hoàng Hậu Đức Bà Ngày 25 tháng Bảy Vua Khải Định (1916-1925) năm thứ Chín sắc phong Đức Thánh Tam Giang Ghi chú: Mẹ Thánh Tam Giang và Đương Giang sinh 5 người con là: Hồng, Hát, Lẫy, Lừng, Nương – Đền chính thờ Trương Hống ở làng Vọng Nguyệt (còn gọi là Thôn Đoài) (xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. -Đền thờ chính Trương Hát ở làng Phượng Nhỡn ở cửa sông Thương. -Vua Khải Định (1916-1925) có sắc phong ghi làng Đào Xá đổi thành Đào Thục năm 1886-1888 (Thời Đồng Khánh) -Đình Đào Thục được làm năm 1735 do ông Đào Tướng Công bổ tiền cho xây dựng. -Bản lịch sử này do Anh Nguyễn Thế Nghị (sinh năm 1973) biên soạn. CHÙA THÁNH PHÚC (ĐÀO THỤC) Chùa Thánh Phúc được tọa lạc trong khuôn viên khá đẹp phía tây của làng và được nằm phía sau Đình Đào Thục, là một chùa cổ được hình thành từ thời các Vua Hùng dựng nước gắn liền với sự tích xây thành Cổ Loa của Thục Phán An Dương Vương. Tích xưa truyền rằng: "... Vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thành cứ xây lại lở, không hiểu vì sao. Vua bèn lập đàn cầu đảo các vị thần. Bỗng thấy Thần Nhân hiện lên và bảo: "Đợi Giang Sứ lại", nói rồi biến mất. Hôm sau vua ra cửa Đông thành, quả thấy Kim Quy "Rùa vàng" nổi lên mặt sông, nói sõi tiếng người tự xưng là Thanh Giang Sứ. Vua rất mừng rỡ và hỏi: Vì sao thành lở?". Kim Quy đáp: "Ấy là do tinh khí của núi sông này, nguyên các con vua triều trước bị giết hại nên vì nước báo thù", lại có tinh con gà trắng cầm đầu quấy phá, trừ xong các tinh khí ấy thành sẽ xây xong, nói rồi tức khắc dẫn đường nhà vua tới Thất Diệu Sơn để trừ "Bạch kê tinh" và yêu quái. Về đến Vũ Dương Sơn thấy núi có phiến đá in dấu chân người, vua hỏi, Kim Quy đáp: "Đấy là nơi Đức Huyền Thiên giáng lâm”. Vua mới truy hỏi thì được biết Huyền Thiên Trấn Vũ lúc bấy giờ đang tu tại chùa Thánh Phúc (Đào Thục), Vua bèn triệu mời ngài lập đàn cầu đảo tại Đền Sái (Thụy Lôi). Với tinh thần vì nước trừ yêu ma để nhân dân phía Bắc sống an cư lạc nghiệp". Nửa tháng sau thành đắp xong, nhân dân trở lại cuộc sống yên vui. Thâm cảm công đức Huyền Thiên Trấn Vũ, vua An Dương Vương đến Vũ Dương Sơn xây đền đắp tượng thần và hiệu là "Cung Kim Khuyết"... cấp tự điền cho dân xã trông nom thờ cúng, chùa Thánh Phúc (Đào Thục) cũng có tượng thờ ngài gần với Phật Tổ ở phía sau Tam Bảo. Truyền thuyết kể rằng chuyện các cô tiên gánh đất xây thành Cổ Loa phải đi qua “Thất Diệu Sơn” “Núi Sái” hiện nay là “Bạch Kê Tinh” lại dọa gáy đùa giỡn, vì sợ trời sáng nên các cô tiên phải bỏ lại gánh đất ấy mà chạy về về trời. Chùa Thánh Phúc (Đào Thục) hiện nay vẫn còn lưu giữ 10 bia đá ghi Hậu Thần (được ghi chép ở phần cuối) Lịch sử hào hùng Làng Đào Thục Làng Đào Thục cũng từng là bãi chiến trường xưa của Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân, Thánh Gióng hay gọi là Phù Đổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần Vương, là một trong bốn vị Thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (tứ bất tử). Người có công dẹp giặc Ân đem lại thái bình cho đất nước. Truyền thuyết kể rằng: Ông sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời vua Hùng thứ 6. Thánh Gióng là người "trời" đầu thai làm đứa trẻ tuy lên ba mà không biết nói cười, đi đứng. Nhưng khi có bộ tộc khác (truyền thuyết ghi là giặc Ân) tràn xuống thì cất tiếng gọi mẹ nhờ ra gọi sứ giả của nhà vua, rồi bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng đi đánh giặc. Sau khi đánh tan giặc Ân, ông bay về trời. Nơi ông hóa chính là núi Sóc thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Đại Việt sử ký toàn thư phần Ngoại kỷ toàn thư, kỷ Hồng Bàng thì ghi chép lại về Thánh Gióng như sau: Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông bà lão nghèo chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức thế mà họ vẫn chưa có con. Một hôm bà ra đồng thấy 1 vết chân rất to liền ướm thử xem thua kém bao nhiêu, không ngờ về nhà bà thụ thai và 12 tháng sau sinh được 1 cậu bé khôi ngô tuấn tú. Kì lạ thay, cậu bé ấy lên ba mà vẫn không biết nói cười, đặt đâu nằm đấy. Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua sai người đi tìm người có thể đánh lui được giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói: "Xin cho một thanh gươm, một áp giáp sắt và một con ngựa, vua không phải lo gì". Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Trâu. Bọn giặc giẫm đạp lên nhau mà chay. Thánh Gióng đuổi giặc chạy qua làng Đào Thục, tới chân núi Sóc thì dừng. Đứa trẻ cởi áo giáp, phi ngựa lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vương. (Đền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng). Chứng tích còn lại sau này là 72 cái ao chuôm dọc theo làng trùng với 18 bước chân ngựa sắt của Thánh Gióng chạy lên hướng Đền Sóc, còn có những bụi tre “đằng ngà” phía đầu đình là vũ khí dùng đánh đuổi giặc của Thánh Gióng và rơi lại cả phía đường Nhạn làng bên. Thật kỳ lạ là những cái ao chuôm còn lại mãi sau này được đan chéo nhau hệt như bước chân ngựa kéo dài suốt từ phía làng Phù Đổng đi lên phía đền Sóc Sơn. Nơi trú chân của Tướng quân Đề Thám Ở vùng đất vào một địa thế tuyệt vời có thành cao hào sâu bao xung quanh làng, dễ phòng thủ khó tấn công, làng Đào Thục xưa kia cũng là nơi che trở ẩn nấp của tướng quân Hoàng Hoa Thám (1836 – 10 tháng 2 năm 1913), còn gọi là Đề Dương, Đề Thám hay Hùm xám Yên Thế, là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp (1884–1913). Năm 1962, nhà nghiên cứu Hoài Nam, trong một bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, cho biết Đề Thám sinh năm 1846, trước khi cải từ họ Trương sang họ Hoàng, ông còn mang họ Đoàn. Kể từ đó, hầu hết các tài liệu viết về Đề Thám đều cho rằng ông gốc họ Trương, hồi bé tên Trương Văn Nghĩa, sau đổi thành Trương Văn Thám, quê ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; sau di cư lên Sơn Tây (nay bao gồm một phàn ngoại thành Hà Nội, một phần các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, Tuyên Quang và toàn tỉnh Vĩnh Phúc), rồi đến Yên Thế (Bắc Giang). Cha ông là Trương Văn Thận và mẹ là Lương Thị Minh. Sinh thời, cha mẹ ông đều là những người rất trọng nghĩa khí; cả hai đều gia nhập cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Nhàn, Nông Văn Vân ở Sơn Tây. Gần đây, Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm trong một bài viết công bố trên tạp chí Xưa và Nay' đã căn cứ vào Đại Nam thực lục' – Chính biên (Đệ nhị kỷ, các quyển CII, CXVIII, CXXIII, CLXII, CLXXIII, CLXXIV), Gia phả họ Bùi (Thái Bình) và Gia phả họ Đoàn (Dị Chế) cho biết Trương Thận (tức cha của Đề Thám) chỉ là biệt danh của một thủ lĩnh nông dân để nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tên chính là Đoàn Danh Lại, người làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, bị anh em Bùi Duy Kỳ bắt giết đem nộp triều đình vào tháng 9 năm Bính Thân, Minh Mệnh thứ 17 (tháng 10 năm1836). Cũng theo Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm, Đoàn Danh Lại có hai con trai: con lớn tên là Đoàn Văn Lễ (sau cải là Trương Văn Leo, không rõ năm sinh), con thứ là Đoàn Văn Nghĩa (tức Trương Văn Nghĩa, tức Đề Thám sau này, sinh được mấy tháng thì bố mẹ bị giết hại). Luận điểm này được Khổng Đức Thiêm khẳng định lại trong tác phẩmHoàng Hoa Thám (1836-1913).[1] Gia phả dòng họ Đinh trong làng còn lưu giữ nói rằng gần đây có một vị tướng lĩnh của Đề Thám là Đinh Công Nho cùng với hơn 10 trai tráng dũng sĩ trong làng khác là lính đi theo hầu bảo vệ tướng quân. Với những chứng tích và lịch sử hào hùng từ ngàn xưa, làng Đào Thục luôn được biết đến là một làng cổ có từ lâu đời đẹp như bức tranh làng Việt cổ kính, có cây đa bến nước sân đình. “Đình làng” và chùa “Thánh Phúc” đều có thờ “Thánh” chứ không chỉ thờ “Thần” vì thế nên nơi đây vẫn là nơi dừng chân và điểm đến của rất nhiều du khách khắp nơi, trong nước và quốc tế. Mảnh đất linh thiêng này là chốn bình yên, để mọi người tĩnh tâm cầu tài cầu may mắn và sự bình an thanh thản của mỗi người. LƯỢC SỬ PHƯỜNG MÚA RỐI NƯỚC DÂN GIAN ĐÀO THỤC Vào thời Hậu Lê làng Đào Thục có Ông Đào Tướng Công (Tự Phúc Khiêm) tên thật là Nguyễn Đăng Vinh quê ở Đào Xá, huyện Yên Phong, Bắc Ninh nay là Đào Thục, xã Thụy lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Sau khi đỗ bảng Tiến Sĩ được bổ nhiệm làm quan Tổng Nội Giám, là Ông Nghè Thứ Sáu trong Triều Lê, ông chú ý đến việc mở mang xây dựng đất nước, quê hương giầu đẹp. Ông cho xây dựng lò đúc tiền đồng cho nhà Vua, cải cách ruộng đất quy hoạch lại để trồng bông dệt vải, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa. Sau khi về quê với tâm huyết của mình, ông đã lập ra được các Phường hội như: Phường Võ – Dạy võ để đẩy mạnh An ninh bảo vệ, Phường Thầy – dạy chữ, Phường Thợ - Dạy nghề xây dựng, thợ mộc, Phường Cối – nghề đóng cối xay xát thóc gạo…và đặc biệt là Phường Rối Nước. Ông làm quan trong Triều Lê đã sớm tiếp thu Nghệ thuật Múa Rối Nước từ các địa phương vào biểu diễn trong cung đình, chọn lọc những nghệ thuật đỉnh cao nhất của rối nước rồi đem về truyền bá cho dân làng Đào Thục. Minh chứng: Tấm bia đá Hậu Thần Bia Ký đã ghi: Ông Nguyễn Đăng Vinh tức Đào Đăng Khiêm làm quan Nội Giám, được dân làng lập đơn bầu Hậu Thần ngày 20 tháng 6 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740) dưới thời Vua Lê Ý Tông (1735-1740) vì có công với dân làng Đào Thục. Trên bia có ghi ông tạ thế ngày 24 tháng 2 năm Nhâm Tý (1732). Vợ ông Đào Đăng Khiêm là bà Nguyễn Thị Cảnh. Ngày lập bia mồng 10 tháng Bảy năm Vĩnh Hựu thứ IV -1738, lập đơn bầu Hậu Thần ngày 20 tháng 6 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740). Lúc bấy giờ là xã Đào Xá, đại diện nhân dân tất cả những người có chức sắc đứng ra ký tên, ai không biết chữ thì điểm chỉ về việc khắc tấm bia này lưu truyền mãi mãi về sau nhắc nhở con cháu dân làng đời đời ghi nhớ. (Bia đá hiện nay đã được xây thành nhà bia để tưởng niệm) -Ngày nay để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, bà là người có công đầu trong việc hình thành xây dựng Phường rối nước làng Đào Thục, dân làng cứ đến ngày mất của ông 24 tháng 2 âm lịch hàng năm làm Lễ thờ ông Tổ nghề rối. -Trong Văn Bia của dân làng lập gọi tên ông là Đào Đăng Khiêm – có ý nói lấy tên làng làm Họ để coi ông như thần hoàng làng vậy. -Mộ ông Đào Đăng Khiêm (tức Nguyễn Đăng Vinh) chôn cất cách làng 200m về phía Đông Nam. Trước mộ có hai con Nghê và hai con Chó bằng đá, xung quanh mộ được xây bằng đá ong, hiện nay mộ vẫn còn được giữ nguyên. QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA PHƯỜNG RỐI Phường Múa Rối Nước Dân Gian Đào Thục có cách đây đã mấy trăm năm, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm lược, nhiều khi nghề rối nước tưởng chừng như bị ngưng trệ. Năm 1955 hòa bình lập lại ở Miền Bắc, lúc đó Phường rối được Ty văn hóa Tỉnh Vĩnh Phúc phục hồi để phục vụ cho các ngày lễ lớn của dân tộc, thuở đó con rối còn thô sơ và sân khấu chỉ là cột tre cót, nên chỉ hoạt động được ít năm bị mục nát hư hỏng lại phải dừng lại. Đến năm 1984 nhân kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Thủ Đô 10-10, với sự tài trợ của Union Internationale de la Marionntte – (Hiệp Hội Rối Thế giới), tổ chức thế giới của những người tham gia vào công việc phát triển nghệ thuật rối. UNIMA là thành viên của IIT (Institut Internationale du Theatre) trong UNESCO, thành lập tháng 5.1929 tại Praha (Tiệp Khắc). UNIMA hiện có thành viên cá nhân và tập thể ở hầu khắp các nước, hoạt động trong các trung tâm UNIMA quốc gia. UNIMA khuyến khích việc đào tạo nghề nghiệp, giúp các thành viên đảm bảo quyền lợi dân chủ, kinh tế và pháp lí trong phạm vi nghề nghiệp; đi sâu nghiên cứu lịch sử lí luận và khoa học, làm sống lại những truyền thống cũng như khuyến khích sự đổi mới, nghệ thuật múa rối. Cùng với Đoàn Múa Rối Hà Nội (nay là Nhà hát múa rối Thăng Long) thuộc Sở văn hóa Thành Phố đã kết nghĩa với Phường và giúp đỡ Phường phục hồi lại, do vậy từ đó nghệ thuật từng bước dần được nâng cao. Thời gian sau đó Phường tiếp tục được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Bộ, ban, ngành văn Hóa. Các đồng chí lãnh đạo như: Đồng chí Lê Văn Lương Bí thư Thành Ủy, đồng chí Trần Hoàn – Mười Hương, ông Nông Quốc Chấn lúc bấy giờ là Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa, bà Nghiêm Chương Châu- Phó Chủ Tịch UBND Thành Phố, sau này có Giáo Sư Hoàng Chương, NSND-Đạo diễn Phạm Thị Thành...vv đã về thăm và định hướng xây dựng giúp đỡ, nên Phường đã nhanh chóng được khôi phục phát triển cho đến nay. Trưởng Phường đầu tiên sau bao nhiêu năm phường được lập lại (năm 1984) là Ông: Đinh Như Sinh; Phó phường là các Ông: Đặng Minh Hải; Ông Nguyễn Văn Tế..vv Các nghệ nhân cao tuổi tham gia rất nhiệt tình thuở đó như: Cụ Tiêu, cụ Sân, cụ Nghiêm, cụ Nhạc, ông Lộc, ông Mạnh, ông Túc, ông Tuấn, ông Đạm, ông Hiền… -Ngày 10-10 năm 1984 Phường được ra biểu diễn tại Công Viên Lê Nin (Thống Nhất). Ở địa phương Phường luôn phục vụ các xã, huyện, các vùng lân cận, được đông đảo nhân dân khắp nơi hưởng ứng đón nhận. -Năm 1986 Nhà nước tổ chức Đại Hội Liên Hoan Văn Hóa các dân tộc lần thứ Nhất tại Hà Nội, phường đã dành được giải Huy Chương Vàng. -Năm 1994 giành được Huy Chương Bạc tại Liên Hoan Múa Rối toàn quốc tổ chức tại Hà Nội. -Thế hệ nối tiếp sau đó là các ông bà: Ông Nguyễn Văn Bốn; Nguyễn Văn Nghị; bà Đinh Thị Thư; ông Đinh Văn Thách; bà Thu Đồng; ông Đặng Văn Thà; ông Đinh Văn Thắng; Nguyễn Đình Sách; Đinh Văn Mận; Đinh Văn Thơm; Đinh Văn Thả; Đặng Văn Thực; Đào Trọng Lực; Ngô Minh Phong; Đinh Hữu Tự; Nguyễn Thị Thỏa; Nguyễn Văn Cường; Nguyễn Văn Trọng; Đinh Xuân Trách; bà Đinh Thị Lan (Long); Nguyễn Thị Lường...vv - Những năm tiếp sau đó đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, phường lại đứng trước những khó khăn của nền kinh tế thị trường, đất nước tích cực tham gia hội nhập quốc tế, nhiều loại hình văn hóa hiện đại trên thế giới xâm nhập vào nước ta, mặc dù được các Sở, ban ngành, cục nghệ thuật biểu diễn, phòng VHTT huyện Đông Anh, UBND xã Thụy Lâm…điều động đi phục vụ nhiều nơi nhưng chỉ là những ngày lễ lớn của đất nước hoặc giao lưu văn hóa. - Đứng trước sự khó khăn chung của nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác như: Tuồng, chèo, cải lương..vv dần mai một. Rối nước Đào Thục phải tự tìm lối đi riêng cho mình, tích cực khai thác thế mạnh của quê hương giàu truyền thống kết hợp với làng nghề làm Du lịch văn hóa dân gian. - Từ năm 2007 Phường bắt đầu tích cực hoạt động hiệu quả hơn, trực tiếp gõ cửa chào đón các công ty du lịch, quảng bá Hình ảnh Rối Nước Đào Thục trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, quảng cáo trên Internet, trên các trang mạng xã hội, lập Phòng Kinh doanh với đội ngũ nghệ nhân trẻ năng động tiếp cận CNTT, xây dựng Website và đẩy mạnh hoạt động Tiếp Thị tìm khách đến với làng rối. - Từ đó đến nay hàng tuần, hàng tháng Phường đều có những tour diễn theo sự chủ động của mình hơn, tại địa phương có nhiều show diễn phục vụ khách du lịch quốc tế. Và qua đây, phường đã được đi lưu diễn khắp các tỉnh thành trong nước và nhiều quốc gia khác trên Thế giới. - Những đối tác thường xuyên lâu năm gắn bó với rối nước Đào Thục như: Văn Miếu Quốc Tử Giám, Bảo tàng dân tộc học, Trung tâm bảo tồn di sản văn hóa.. - Những người con của làng Đào Thục sau khi công tác đã nghỉ hưu nhưng vẫn luôn tâm huyết gắn bó, ngày đêm xây dựng đường lối chỉ đạo định hướng giúp cho phường có được chỗ dựa vững chắc về tinh thần, có 3 anh em ông: Đinh Hoài Hiền, Đinh Văn Thi và đặc biệt là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – ông Đại Tá Đinh Thế Văn. Bí thư Chi bộ đảng nhiều năm liền - ông Đinh Hữu Bình..vv - Các Trưởng/phó Phường tiếp nối qua từng giai đoạn có ông: Nguyễn Văn Nghị; Đinh Văn Thắng; Nguyễn Văn Quảng; Đặng Văn Thà; Đào Trọng Lực; Ngô Minh Phong; Đinh Hữu Tự. - Hiện nay Phường vẫn đang tiếp tục mở rộng tuyển chọn nhiều lớp trẻ trong địa phương có trình độ, có tâm huyết để đào tạo thành đội ngũ nghệ nhân kế cận phát triển Phường ngày một chuyên nghiệp. - Còn nhiều những khó khăn khác, phường vẫn mong các cấp lãnh đạo, các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế hãy cùng với chúng tôi chung tay góp phần vào việc bảo tồn và phát huy môn nghệ thuật độc đáo có một không hai trên thế giới, niềm tự hào của người Việt Nam. SỰ KHÁC BIỆT CỦA RỐI NƯỚC ĐÀO THỤC Rối Nước Đào Thục có nét khác biệt nào với các phường rối khác trên cả nước Sự khác biệt thứ nhất: Là tiết mục mở màn "Đốt pháo bật cờ" hay còn gọi là bật cờ hội, ở các Phường rối khác là Chú Tễu thường xuất hiện đầu tiên sau đó thấy sân khấu chưa được sẵn sàng lúc đó anh mới hô lên trống dong cờ mở và cờ mới được bật lên. Còn nghệ thuật rối nước Đào Thục thì sân khấu phải được chuẩn bị kỹ trước đó, đốt pháo bật cờ nghĩa là công việc làm sân khấu phải được chuẩn bị chu đáo trước khi người dẫn chương trình giới thiệu các tiết mục (MC) mới bắt đầu cho khai mạc chương trình. Trước đây hai bên giàn cờ sân khấu là hai hàng bá quan văn võ đứng hầu thể hiện sự uy nghi của RNĐT, giúp người xem thấy được nghệ thuật rối nước vốn nó có nguồn gốc từ trên thiên đình. Từ khán giả đến được với buồng trò của nhà Thuỷ Đình phải được kiểm duyệt qua hai hàng quan binh, bên là cánh quan văn bên là cánh quan võ, cũng là thể hiện sự giám sát chặt trẽ mọi hoạt động diễn ra trong mỗi tiết trò. Tiếp đến phía trong mới là sự nghiêm trang của tấm Y Môn ngăn cách danh giới giữa cuộc sống đời thường với bên trong buồng trò là sự tôn nghiêm của những linh hồn rối nước.

Điểm khác biệt thứ hai: Đó là anh Ba Khí giáo trò, các phường khác là chú Tễu, Đây là nhân vật được xem như linh hồn của nghệ thuật rối nước, bởi rối nước được sinh ra từ cư dân trồng lúa nước "nền văn minh của nhân loại" bắt nguồn từ Việt Nam. Chú Tễu là hiện thân của anh nông dân hiền lành chất phác ngộ nghĩnh đáng yêu đại diện cho hình ảnh của anh nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Nhân vật này được xem là linh hồn của rối nước, anh vốn là người trên Thiên Cung bị Thượng Đế đưa xuống trần gian để gỡ rối mọi chuyện, cũng xuất hiện để mở màn trò rối tạo cầu nối giữa các trò rối với khán giả, nhưng ngay từ sự xuất hiện đã thấy anh băn khoăn trăn trở việc đời. Anh Ba Khí của Rối Đào Thục – được chế tác hình ảnh một nhân vật chân thực hơn không còn là nhân vật Chú Tễu bụng phệ tay cầm quạt nữa, là thể hiện được tầm nhìn xa xôi từ thuở khai sinh ra rối nước Đào Thục của ông Tổ Đào Đăng Khiêm, sao lại nói vậy? Ba Khí là vừa đại diện cho hình ảnh Chú Tễu của Miền Bắc vừa là anh Ba Khía của Miền Nam, cũng là hình ảnh người dẫn chương trình nhưng cao hơn Tễu ở cái tầm về ý nghĩa. Thuở đó cách đây cũng 300 năm Sài Gòn được thành lập nhưng nước ta lúc bấy giờ chưa được thống nhất như hôm nay. Ngay từ lúc xuất hiện anh Ba Khí chỉ mang tính chất như một nhà tổ chức chương trình, ca ngợi quê hương đất nước, chào đón khán giả và luôn vui tươi hóm hỉnh. Đây là nghệ thuật đỉnh cao của thú chơi rối riêng của làng Đào Thục, chơi rối để mua vui cho thiên hạ. Qua phần tự giới thiệu rõ ràng là anh ta phải quay về buồng trò nhưng anh ta lại nói "Tôi ra đây tôi chẳng muốn về.." TÓM TẮT LỊCH SỬ LÀNG ĐÀO THỤC Đào Thục là một làng cổ (năm 1928 chỉ có 283 nhân khẩu), có tên Nôm là làng Đầu đến thời Đồng Khánh (1886 - 1888) mới đổi thành tên hiện nay, "Đào" tên gốc là Đào Xá còn "Thục" ý nói là các cô gái, cô đào nơi đây đều hát hay, rất xinh đẹp và hiền thục. Đầu thế kỷ XIX, làng cũng là một xã độc lập thuộc tổng Hương La, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (năm 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Năm 1876, làng được chuyển về tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh (từ năm 1903 huyện này cắt về tỉnh Phúc Yên). Trong kháng chiến chống Pháp, làng nằm trong xã Tiến Bộ, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (từ năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc). Từ năm 1961 xã Tiến Bộ và huyện Đông Anh được cắt về Hà Nội. Tháng 11 năm 1965, xã đổi tên thành Thụy Lâm. Đào Thục nằm ven con sông Cà Lồ, có bãi bờ bốn mùa xanh một màu xanh của ngô, đậu, dâu, lúa. Đây là một làng cổ, hình thành từ thời các Vua Hùng, từng là bãi chiến trường của Phù Đổng Thiên Vương, dấu tích còn lại là 72 cái chuôm bao quanh làng, tương truyền là dấu chân ngựa sắt của Thánh Gióng để lại và những bụi tre đằng ngà ở đầu đình mà Thánh Gióng dùng để đuổi đánh giặc Ân. Có truyền thuyết kể rằng Làng Đào Thục cũng là nơi trú ẩn của Tướng Quân Đề Thám một thời, xung quanh làng có thành cao hào sâu địa thế khá hiểm trở, xã Đào Xá là nơi giao thương tấp nập trên bến dưới thuyền đường làng ngõ xóm sạch đẹp bàn cờ. Làng Đào Thục có ngôi đình ở ngay đầu làng, thờ ba vị thần: Đức Thánh Tam Giang (một võ tướng giúp Triệu Quang Phục đánh giặc Lương giữa thế kỷ VI), Đức Thánh Đương Giang (một tướng giỏi giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn 12 sứ quân cuối thế kỷ X) và bà Phi nương Hoàng hậu. Hội làng diễn ra vào ngày 12, 13 tháng Một âm lịch. Làng Đào Thục có chùa Thánh Phúc ở sau đình đã có từ lâu đời, ngoài thờ Phật còn thờ đức Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ - một vị thần của Đạo giáo. Tương truyền, khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thường bị Bạch Kê Tinh (thần gà trắng) gây rối, thành đổ nhiều lần. Vua làm lễ cầu đảo, được Thần Kim Quy hiện lên báo cho biết kẻ phá hại việc xây thành, rồi phái Huyền Thiên Trấn Vũ lúc bấy giờ đang tu ở chùa Thánh Phúc (Đào Thục), dùng pháp thuật dẹp trừ yêu quái (tại Đền Sái Thụy Lôi) nên thành mới xây xong. Vì thế, phía sau Tam Bảo của chùa có tượng Trấn Vũ.  Làng Đào Thục có nghệ thuật múa rối nước độc đáo. Tương truyền, vào cuối thế kỷ XVIII trước năm 1732, ông Nguyễn Đăng Vinh là người làng Đào Thục, tự là Phúc Thiêm, hay còn gọi là Đào Đăng Khiêm, làm quan Nội giám trong Triều đình nhà Lê. Khi về quê ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Cảnh xuất tiền tu bổ lại đình chùa, quy hoạch lại làng xóm, đặt lại các lệ tục, đón thầy về dạy chữ, dạy võ, dạy nghề đóng cối, trồng bông dệt lụa, trồng dâu nuôi tằm, lại hiến cho làng 3 mẫu 5 sào ruộng và 500 quan tiền. Đặc biệt, là dạy dân làng nghệ thuật múa rối nước. Ông bà được tôn làm tổ nghề, dân làng cúng giỗ vào ngày 24 tháng Hai âm lịch. Các dịp hội làng, giỗ Tổ nghề, hội chùa Thánh Phúc, đều có tế tổ nghề, biểu diễn rối nước. Ngoài giáo trò, rối nước Đào Thục có hơn hai chục trò diễn phục vụ khán giả như: Đốt pháo bật cờ; Múa Rồng; Câu ếch; Nhà nông cày cấy, Trâu chui ống; Đánh úp cá; Xay thóc giã gạo; Đánh cáo bắt vịt; Phùng Hưng đánh hổ, Lên ngựa xuống võng, Dệt cửi trao con; Thạch Sanh chém trăn tinh; Múa Phượng; Múa tứ linh; Múa tiên; Rước ảnh bác Hồ; Tặng hoa ngày hội; Chiến sĩ biên phòng; Hà Nội 12 ngày đêm; Tễu bắt ác; Anh phót nước… Trong kháng chiến chống Pháp, rối nước Đào Thục bị ngưng trệ, đến năm 1957 được phục hồi. Trước đây nhà Thủy đình để biểu diễn rối nước đều làm bằng tre, Đến năm 2000 được xây gạch. Đến nay rối nước Đào Thục đã vượt khỏi lũy tre làng, đi phục vụ ở nhiều nơi trong nước và quốc tế. Biên soạn: Nguyễn Thế Nghị (sinh năm 1973) - Phường múa rối nước dân gian Đào Thục Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng gửi về hòm thư góp ý: E-mail: roidaothuc@gmail.com Hotline: 094 845 1973 VĂN BIA XÃ ĐÀO XÁ, HUYỆN YÊN PHONG, PHỦ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH (Nay là Thôn Đào Thục, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội) Bản dịch Do Viện Nghiên cứu Hán Nôm dịch Tháng 12 năm 2005 Dịch nghĩa - Bia mặt 1: BIA GHI HẬU THẦN VIỆC THỜ HẬU THẦN XÃ ĐÀO XÁ Từng nghe nói rằng: “ Phúc đức của một làng, thấm nhuần có hạn; song lại như dòng sông tưới tắm chín dặm, rộng lớn lắm thay! Đức lớn ấy đối với dân ta là muôn đời, không thể quên lãng được”. Kính nghĩ: Quan Phụng sai Phụ tá, Quản Thị nội Hiệu đẳng ty, Tư Lễ giám Tổng Thái giám, tước Lai Triều hầu Nguyễn quí hầu người xã Đào Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn. Từ rất sớm ngài đã được vào hầu trong Hoàng Môn (1), liên tục được thăng chức; dự vào hàng phẩm tước (2), danh đi đôi với thực; năm sáu mươi năm cung kính phụng sự, được vào hầu trong nội điện, sớm tối chuyên cần. Nay kết mối lương duyên cùng Quận Phu Nhân họ Nguyễn. Bà là người dịu dàng hiền thục, đỡ việc giúp chồng; bản xã tuy không phải là quê cha đất tổ, nhưng vẫn coi như chốn quê mình “Tang tử Phần du” (3); vì thế xã ta nhận được ở bà ân sâu nghĩa nặng, được hưởng phần ưu ái bao dung. Đó là chuyện đã qua, nay lại được ông quý hầu có tâm, ban cho 500 quan sử tiền để tậu 4 mẫu ruộng tốt ở phần đất trong xã, và cả khu Từ Chỉ trong đó một cái ao rộng. Dân cả xã cảm động trước ân tình đó, bèn cùng nhau đến tận cửa quan tâu trình, xin suy tôn làm Hậu Thần. May thay, trời thuận theo lòng người; ban cho sắc phong: Quí Hầu và Phu nhân làm Hậu Thần bản xã. Ngẩng trông sắc rồng, mừng vui khôn xiết; từ nay về sau nguyện xin kính cẩn, tuân theo lời dạy của người xưa; nghĩ về Vua Nghiêu Vua Thuấn (4), ca ngời thuần phong, luôn nhớ đến các bậc văn võ, vui với niềm vui vủa họ. Nay ngài Nguyễn quí hầu, xếp vào hàng quý hiển, giữ chức trong triều; dân ta phải thờ như cha mẹ, những mong người cao niên trường thọ; và khi người trăm tuổi, phải phụng thờ như bậc thần minh, hương hỏa muôn đời, không bao giờ thay đổi. Các tiết lễ hàng năm đều ghi vào mặt sau bia này. Nay phụng sao: -Sắc phong cho Quan Phụng Sai Phụ Tá, Quản Thị Nội Hiệu đẳng ty, Tư Lễ Giám Tổng Thái Giám là Nguyễn Đăng Vinh, tước Lai Triều Hầu cùng Quận Phu Nhân Nguyễn Thị Cảnh. Vì đã phò tá giúp việc nhiều năm, có nhiều công lao đóng góp. Nay được dân thôn xã Đào Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn cùng nhau bầu làm Hậu Thần. Xứng đáng ban đặc ân cho Tước Lai Triều Hầu Nguyễn Đăng Vinh cùng Quận Phu Nhân Nguyễn Thị Cảnh đều là bậc Hậu Thần của bản xã; tên tuổi vẻ vang, lưu truyền mãi mãi; để lại phúc đức cho con cháu, phụng thờ muôn năm. Nay ban sắc. Ngày 10 tháng 7 niên hiệu Vĩnh Hựu 4 (1738). Quan viên xã Đào Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn là: Xã chính Đinh Thế Thọ, Xã sử Đinh Tiến Hài, Thôn trưởng Trương Tiến Tài, Nguyễn Phú Liêm, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Danh Tiêu, Đào Thế Lộc, Đào Đình Tố, Nguyễn Phú Ninh, Nguyễn Đình Dự, Ngô Thế Vinh, Ngô Danh Hoàn, Nguyễn Phú Danh, Đinh Văn Sắt, Nguyễn Văn Chắt, Đào Đăng Bảng, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Duy Hậu, Nguyễn Quang Huân, Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Công Liêm, Nguyễn Phú Bì, Đinh Văn Tĩnh, Nguyễn Hữu Khánh, Trần Quang Hán, Nguyễn Phú Hài cùng toàn thể dân xã nhất trí bầu Hậu Thần, phụng thờ tại Từ Chỉ. Từng nghe nói rằng: “Triều đình là nơi tiêu biểu của bốn phương, dung được người hiền tài thì đời yên ổn. Hầu Thần vinh hiển vào bậc Tam phẩm (5), đức độ thân tình thì người biết mà kính nể”. Lại từng nghe: “Gây được niềm tin ở mọi người, họ sẽ nghe theo; đó là lẽ thường tình của dân chúng”. Nay thấy trong xã có vị quan Phụng sai phụ tá, Quản Thị nội Hiệu lệnh đẳng ty, Tổng Thái Giám Tư Lễ giám là Nguyễn Đăng Vinh, tước Lai Triều hầu cùng Quận Phu nhân Nguyễn Thị Cảnh thuộc hàng thế gia vọng tộc, danh tiếng trong triều. Làm quan thì công bằng chính trực, với xóm làng thì nghĩa tình, với gia đình thì hiếu đễ; đối với người thì thân ái, hài hòa nghĩa nhân, nhạy bén binh lược, bản lĩnh kiên cường. Trải bao năm trường, được triều đình gửi gắm; nhiều công giúp rập, có đủ Tam đức (6) xứng đứng đầu làng xóm; coi trọng tình thân, thờ ơ phú quí. Xét mình có chút công danh, được người tin theo: chung lòng mến phục. Nay toàn thể dân xã, được hưởng ân sâu, hưởng đức vô cùng; luôn nhớ đến người, giữ tâm đức hạnh. Cần phải bầu là Quan Hậu Thần, để tỏ lòng tôn kính nghiêm trang. Nay lại xuất cho bản xã 500 quan sử tiền, 3 mẫu 5 sào ruộng, một khu đất Từ chỉ và 1 cái ao. Rồi ban cho 5 sào ruộng khác, để dung vào việc sửa chữa Từ chỉ. Tất cả là để dùng vào việc thờ cúng Hậu Thần, để cảm tạ công lao của Hậu Thần. Than ôi! Ở chức cao, nắm quyền lớn; nay soi trong điển lễ xưa, sửa lại phong tục, phục hồi tục đẹp; ngõ hầu là để hưởng phúc thái bình. Xin kể lại việc này, kính đem các điều liệt kê như sau. Kê: THỨ TỰ CÁC TIẾT THỜ CÚNG TẠI TỪ CHỈ -Lễ ngày mùng 3 tháng Giêng: 1 con gà, 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. -Tiết Du Xuân (Chơi Xuân) ngày 12 tháng 2; làm lễ trong 4 ngày, mỗi ngày sửa lễ gồm: 1 con gà, 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. Bia mặt 2: BIA GHI HẬU THẦN -Lễ ngày sinh nhật (của Quan ông): ngày 26 tháng 2. Lễ gồm: 1 con lợn giá 2 quan sử tiền, 1 mâm xôi bằng 10 đấu gạo, 1 vò rượu, 1 hộp trầu. -Lễ Dự cáo ngày 23 tháng 2. Lễ gồm: 1 con gà, 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. -Ngày chính giỗ là 24 tháng 2. Sửa lễ: 1 con lợn giá 2 quan sử tiền, 1 mâm xôi bằng 10 đấu gạo, 1 vò rượu, 1 hộp trầu, 500 tiền vàng giấy. -Ngày dự cáo Quận Phu nhân: 1 con gà, 1 mâm xôi bằng 10 đấu gạo, 1 vò rượu, 1 hộp trầu, 500 tiền vàng giấy. Lễ Tiết Hạ Điền ngày 3 tháng 3. Sửa lễ: 1 con gà, 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. -Tiết Triết Minh Tàm (tằm ăn rỗi): ngày 12 tháng 5, lễ 1 con gà, 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. -Tiết Thượng Điền ngày 10 tháng 7. Sửa lễ: 1 con gà, 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. -Tiết Trung Thu ngày 15 tháng 8. Sửa lễ gồm: 1 con gà, 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. -Tiết Thường Tiên (Lễ cơm mới). Lễ gồm: 1 con gà, 1 nồi cơm gạo mới. -Lễ Xướng ca tại Từ Chỉ là ngày … tháng 12: ca hát diễn trò. Dùng 4 quan 2 mạch, 30 đấu gạo; mua hương nến 1 quan sử tiền. Sửa lễ trong 4 đêm ca hát tại Từ chỉ: 1 con gà giá 6 mạch 40 văn sử tiền; 4 mâm xôi mỗi mâm là 10 đấu gạo, 1 vò rượu. Cá hát 2 đêm, thưởng cho ca công là 6 quan sử tiền. Người bản xã tham gia ca hát được ăn uống: 2 con lợn giá 4 quan sử tiền, 4 mâm xôi, 2 vò rượu giá 2 quan sử tiền. Cộng các khản là 8 quan 5 mạch sử tiền, gạo 82 đấu. -Tiết Tiết Liệu (7): ngày 30 tháng 12. Giáp đương cai sửa lễ: 1 con gà 1 mâm xôi, 1 hũ rượu, 1 hộp trầu. Ngôi Từ chỉ sau này, dù trải trăm ngàn năm, nếu bị hư hỏng thì bản xã phải sửa sang tu chỉnh lại để kính phụng thờ. -Sắc ban cho vị: Đặc tiến kim tử Vinh lộc Đại phu, Đô Thái giám Tư Lễ giám, tước Dân Triều Hậu, bậc Thượng Trụ Quốc Nguyễn Đăng Vinh. Do theo phục dịch bề trên đã lâu, ngày đêm túc trực; nên xứng đáng theo vị Đại Nguyên soái, Tổng Quốc chính Thượng Sư Thái phụ. Ngài là bậc thông đức anh thanh, thánh công to lớn; làm cho nước thịnh dân yên, bằng sự nghĩa cả chính trực. Vì thế, được ban Chỉ chuẩn thừa ân; lại được triều thần đề nghị thăng chức Tổng Thái giám, tước Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Tư Lễ giám Tổng Thái giám Dận Triều hầu, bậc Thượng Trụ quốc. Nay ban sắc. -Phong tặng chức Tham Đốc. -Phong tặng Huân Võ Tướng quân, tước Lại Quận công Đào tướng công, tự Phúc Kiêm. Ban tên thụy là Đôn Hậu. Ngày 24 tháng Giêng năm Vĩnh Hựu 4 (1738). Đóng Bảo ấn. -Sắc ban cho bà Tịnh nhân Nguyễn Thị Cảnh, là vợ cả Quan Phụng sai Phụ tá, Quản Thị nội Hiệu lệnh đẳng ty, Tư Lễ giám Tổng Thái giám, tước Lai Triều hầu Nguyễn Đăng Vinh. Được đặc biệt phong chức ấm Quận Phu nhân. Đáng ấm phong là Quận Phu nhân. Nay ban sắc. Đóng Bảo ấn. Ngày 12 tháng 6 niên hiệu Vĩnh Hựu 4 (1738). Trên đây là những ngày lễ tiết, phải tuân theo các lệ đó thờ cúng tại Từ chỉ, mãi mãi muôn đời. Nếu sau này có thiếu sót lễ tiết nào, thì bản xã phải bồi thường. Số tiền ấy để lại cho con cháu trong họ, mãi mãi cho đời sau. Dân toàn xã nhất trí bầu 2 vị Hậu Thần là: -Quan Phụng sai Phụ tá, Quản Thị nội Hiệu lệnh đẳng ty, Tư Lễ giám Tổng Thái giám, tước Lai Triều hầu Nguyễn Đăng Vinh. Ngài mất vào giờ tốt, năm Nhâm Tý; hưởng thọ 74 tuổi. -Vợ là bà Quận Phu nhân Nguyễn Thị Cảnh. Các thửa ruộng ở các xứ đồng liệt kê như sau. - 1 thửa 1 sào ở xứ Sài Sắt – 1 thửa 1 sào 10 thước ở xứ Sau Chùa. - 1 thửa 4 sào ở xứ Đồng Giai; và 1 thửa 10 thước. - 2 thửa liền nhau 4 sào 5 thước ở xứ Cầu Chính. - 2 thửa 4 sào ở xứ Đống Dĩ. - 1 thửa 1 sào ở xứ Cầu Bạc, và 3 thửa 3 sào. - 1 thửa 3 sào ở xứ Đồng Hộ, và 1 thửa 1 sào. - 1 thửa 1 sào 10 thước ở xứ Đồng Nội. - 1 thửa 3 sào ở xứ Đồng Ủy. - 2 thửa 3,5 sào ở xứ Chân Hiên, và 1 thửa 1 sào 5 thước. - 1 thửa 1 sào 5 thước 2 tấc ở xứ Đàm (Đầm). - 1 thửa 3 sào ở xứ Đồng Lan – 1 thửa 1 sào xứ Mả Lộc, và 1 thửa 10 thước nữa. - 2 thửa 2 sào liền nhau ở xứ Cầu Trung. Lập đơn bầu Hậu Thần ngày 20 tháng 6 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740). Xã chính Đinh Thế Thọ, Trương Tiến Tài, Nguyễn Phú Liêm, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Danh Tiêu, Đào
  • TÓM TẮT LỊCH SỬ LÀNG ĐÀO THỤC Đào Thục là một làng cổ (năm 1928 chỉ có 283 nhân khẩu), có tên Nôm là làng Đầu đến thời Đồng Khánh (1886 - 1888) mới đổi thành tên hiện nay, "Đào" tên gốc là Đào Xá còn "Thục" ý nói là các cô gái, cô đào nơi đây đều hát hay, rất xinh đẹp và hiền thục. Đầu thế kỷ XIX, làng cũng là một xã độc lập thuộc tổng Hương La, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (năm 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Năm 1876, làng được chuyển về tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh (từ năm 1903 huyện này cắt về tỉnh Phúc Yên). Trong kháng chiến chống Pháp, làng nằm trong xã Tiến Bộ, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (từ năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc). Từ năm 1961 xã Tiến Bộ và huyện Đông Anh được cắt về Hà Nội. Tháng 11 năm 1965, xã đổi tên thành Thụy Lâm. Đào Thục nằm ven con sông Cà Lồ, có bãi bờ bốn mùa xanh một màu xanh của ngô, đậu, dâu, lúa. Đây là một làng cổ, hình thành từ thời các Vua Hùng, từng là bãi chiến trường của Phù Đổng Thiên Vương, dấu tích còn lại là 72 cái chuôm bao quanh làng, tương truyền là dấu chân ngựa sắt của Thánh Gióng để lại và những bụi tre đằng ngà ở đầu đình mà Thánh Gióng dùng để đuổi đánh giặc Ân. Có truyền thuyết kể rằng Làng Đào Thục cũng là nơi trú ẩn của Tướng Quân Đề Thám một thời, xung quanh làng có thành cao hào sâu địa thế khá hiểm trở, xã Đào Xá là nơi giao thương tấp nập trên bến dưới thuyền đường làng ngõ xóm sạch đẹp bàn cờ. Làng Đào Thục có ngôi đình ở ngay đầu làng, thờ ba vị thần: Đức Thánh Tam Giang (một võ tướng giúp Triệu Quang Phục đánh giặc Lương giữa thế kỷ VI), Đức Thánh Đương Giang (một tướng giỏi giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn 12 sứ quân cuối thế kỷ X) và bà Phi nương Hoàng hậu. Hội làng diễn ra vào ngày 12, 13 tháng 11 âm lịch. Làng Đào Thục có chùa Thánh Phúc ở sau đình đã có từ lâu đời, ngoài thờ Phật còn thờ đức Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ - một vị thần của Đạo giáo. Tương truyền, khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thường bị Bạch Kê Tinh (thần gà trắng) gây rối, thành đổ nhiều lần. Vua làm lễ cầu đảo, được Thần Kim Quy hiện lên báo cho biết kẻ phá hại việc xây thành, rồi phái Huyền Thiên Trấn Vũ lúc bấy giờ đang tu ở chùa Thánh Phúc (Đào Thục), dùng pháp thuật dẹp trừ yêu quái (tại Đền Sái Thụy Lôi) nên thành mới xây xong. Vì thế, phía sau Tam Bảo của chùa có tượng Trấn Vũ.  Làng Đào Thục có nghệ thuật múa rối nước độc đáo. Tương truyền, vào cuối thế kỷ XVIII trước năm 1732, ông Nguyễn Đăng Vinh là người làng Đào Thục, tự là Phúc Thiêm, hay còn gọi là Đào Đăng Khiêm, làm quan Nội giám trong Triều đình nhà Lê. Khi về quê ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Cảnh xuất tiền tu bổ lại đình chùa, quy hoạch lại làng xóm, đặt lại các lệ tục, đón thầy về dạy chữ, dạy võ, dạy nghề đóng cối, trồng bông dệt lụa, trồng dâu nuôi tằm, lại hiến cho làng 3 mẫu 5 sào ruộng và 500 quan tiền. Đặc biệt, là dạy dân làng nghệ thuật múa rối nước. Ông bà được tôn làm tổ nghề, dân làng cúng giỗ vào ngày 24 tháng Hai âm lịch. Các dịp hội làng, giỗ Tổ nghề, hội chùa Thánh Phúc, đều có tế tổ nghề, biểu diễn rối nước. Ngoài giáo trò, rối nước Đào Thục có hơn hai chục trò diễn phục vụ khán giả như: Đốt pháo bật cờ; Múa Rồng; Câu ếch; Nhà nông cày cấy, Trâu chui ống; Đánh úp cá; Xay thóc giã gạo; Đánh cáo bắt vịt; Phùng Hưng đánh hổ, Lên ngựa xuống võng, Dệt cửi trao con; Thạch Sanh chém trăn tinh; Múa Phượng; Múa tứ linh; Múa tiên; Rước ảnh bác Hồ; Tặng hoa ngày hội; Chiến sĩ biên phòng; Hà Nội 12 ngày đêm; Tễu bắt ác; Anh phót nước… Trong kháng chiến chống Pháp, rối nước Đào Thục bị ngưng trệ, đến năm 1957 được phục hồi. Trước đây nhà Thủy đình để biểu diễn rối nước đều làm bằng tre, Đến năm 2000 được xây gạch. Đến nay rối nước Đào Thục đã vượt khỏi lũy tre làng, đi phục vụ ở nhiều nơi trong nước và quốc tế. Biên soạn: Nguyễn Thế Nghị (sinh năm 1973) - Phường múa rối nước dân gian Đào Thục Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng gửi về hòm thư góp ý: E-mail: roidaothuc@gmail.com Hotline: 094 845 1973
  • Lược sử phường múa rối nước dân gian Đào Thục Vào thời Hậu Lê làng Đào Thục có Ông Đào Tướng Công (Tự Phúc Khiêm) tên thật là Nguyễn Đăng Vinh quê ở Đào Xá, huyện Yên Phong, Bắc Ninh nay là Đào Thục, xã Thụy lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Sau khi đỗ bảng Tiến Sĩ được bổ nhiệm làm quan Tổng Nội Giám, là Ông Nghè Thứ Sáu trong Triều Lê, ông chú ý đến việc mở mang xây dựng đất nước, quê hương giầu đẹp. Ông cho xây dựng lò đúc tiền đồng cho nhà Vua, cải cách ruộng đất quy hoạch lại để trồng bông dệt vải, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa. Sau khi về quê với tâm huyết của mình, ông đã lập ra được các Phường hội như: Phường Võ – Dạy võ để đẩy mạnh An ninh bảo vệ, Phường Thầy – dạy chữ, Phường Thợ - Dạy nghề xây dựng, thợ mộc, Phường Cối – nghề đóng cối xay xát thóc gạo…và đặc biệt là Phường Rối Nước. Ông làm quan trong Triều Lê đã sớm tiếp thu Nghệ thuật Múa Rối Nước từ các địa phương vào biểu diễn trong cung đình, chọn lọc những nghệ thuật đỉnh cao nhất của rối nước rồi đem về truyền bá cho dân làng Đào Thục. Minh chứng: Tấm bia đá Hậu Thần Bia Ký đã ghi: Ông Nguyễn Đăng Vinh tức Đào Đăng Khiêm làm quan Nội Giám, được dân làng lập đơn bầu Hậu Thần ngày 20 tháng 6 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740) dưới thời Vua Lê Ý Tông (1735-1740) vì có công với dân làng Đào Thục. Trên bia có ghi ông tạ thế ngày 24 tháng 2 năm Nhâm Tý (1732). Vợ ông Đào Đăng Khiêm là bà Nguyễn Thị Cảnh. Ngày lập bia mồng 10 tháng Bảy năm Vĩnh Hựu thứ IV -1738, lập đơn bầu Hậu Thần ngày 20 tháng 6 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740). Lúc bấy giờ là xã Đào Xá, đại diện nhân dân tất cả những người có chức sắc đứng ra ký tên, ai không biết chữ thì điểm chỉ về việc khắc tấm bia này lưu truyền mãi mãi về sau nhắc nhở con cháu dân làng đời đời ghi nhớ. (Bia đá hiện nay đã được xây thành nhà bia để tưởng niệm) -Ngày nay để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, bà là người có công đầu trong việc hình thành xây dựng Phường rối nước làng Đào Thục, dân làng cứ đến ngày mất của ông 24 tháng 2 âm lịch hàng năm làm Lễ thờ ông Tổ nghề rối. -Trong Văn Bia của dân làng lập, gọi tên ông là Đào Đăng Khiêm – có ý nói lấy tên làng làm Họ để coi ông bà như thần hoàng làng vậy. -Mộ ông Đào Đăng Khiêm (tức Nguyễn Đăng Vinh) chôn cất cách làng 200m về phía Đông Nam. Trước mộ có hai con Nghê và hai con Chó bằng đá, xung quanh mộ được xây bằng đá ong, hiện nay mộ vẫn còn được giữ nguyên. QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA PHƯỜNG RỐI Từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn vẫn được duy trì phát triển. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều di tích bị đốt phá. Năm 1957 nghề rối của làng được khôi phục do cụ Trí là trùm trưởng. Thời chiến tranh chống đế quốc Mỹ, nghề rối lại gián đoạn, đến năm 1968 mới được tiếp nối do cụ Tô Sanh làm trùm trưởng rồi đến cụ Đinh Văn Viết. Phường Múa Rối Nước Dân Gian Đào Thục có cách đây đã mấy trăm năm, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm lược, nhiều khi nghề rối nước tưởng chừng như bị ngưng trệ. Năm 1955 hòa bình lập lại ở Miền Bắc, lúc đó Phường rối được Ty văn hóa Tỉnh Vĩnh Phúc phục hồi để phục vụ cho các ngày lễ lớn của dân tộc, thuở đó con rối còn thô sơ và sân khấu chỉ là cột tre cót, nên chỉ hoạt động được ít năm bị mục nát hư hỏng lại phải dừng lại. Đến năm 1984 nhân kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Thủ Đô 10-10, với sự tài trợ của Union Internationale de la Marionntte – (Hiệp Hội Rối Thế giới), tổ chức thế giới của những người tham gia vào công việc phát triển nghệ thuật rối. UNIMA là thành viên của IIT (Institut Internationale du Theatre) trong UNESCO, thành lập tháng 5.1929 tại Praha (Tiệp Khắc). UNIMA hiện có thành viên cá nhân và tập thể ở hầu khắp các nước, hoạt động trong các trung tâm UNIMA quốc gia. UNIMA khuyến khích việc đào tạo nghề nghiệp, giúp các thành viên đảm bảo quyền lợi dân chủ, kinh tế và pháp lí trong phạm vi nghề nghiệp; đi sâu nghiên cứu lịch sử lí luận và khoa học, làm sống lại những truyền thống cũng như khuyến khích sự đổi mới, nghệ thuật múa rối. Cùng với Đoàn Múa Rối Hà Nội (nay là Nhà hát múa rối Thăng Long) thuộc Sở văn hóa Thành Phố đã kết nghĩa với Phường và giúp đỡ Phường phục hồi lại, do vậy từ đó nghệ thuật từng bước dần được nâng cao. Thời gian sau đó Phường tiếp tục được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Bộ, ban, ngành văn Hóa. Các đồng chí lãnh đạo như: Đồng chí Lê Văn Lương Bí thư Thành Ủy, đồng chí Trần Hoàn – Mười Hương, ông Nông Quốc Chấn lúc bấy giờ là Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa, bà Nghiêm Chương Châu- Phó Chủ Tịch UBND Thành Phố, sau này có Giáo Sư Hoàng Chương, NSND-Đạo diễn Phạm Thị Thành...vv đã về thăm và định hướng xây dựng giúp đỡ, nên Phường đã nhanh chóng được khôi phục phát triển cho đến nay. Trưởng Phường đầu tiên sau bao nhiêu năm phường được lập lại (năm 1984) là Ông: Đinh Như Sinh; Phó phường là các Ông: Đặng Minh Hải; Ông Nguyễn Văn Tế..vv Các nghệ nhân cao tuổi tham gia rất nhiệt tình thuở đó như: Cụ Viết, cụ Tiêu, cụ Sân, cụ Nghiêm, cụ Điềm, ông Nhạc, ông Lộc, ông Mạnh, ông Túc, ông Tuấn, ông Đạm..vv.. -Đại lễ kỷ niệm 30 năm giải phóng Thủ đô, ngày 10-10 năm 1984 Phường được ra biểu diễn tại Công Viên Lê Nin (Thống Nhất). Ở địa phương Phường luôn sẵn sàng phục vụ các xã, huyện, các vùng lân cận mỗi khi có yêu cầu, được đông đảo nhân dân khắp nơi cổ vũ nhiệt tình. -Năm 1986 Nhà nước tổ chức Đại Hội Liên Hoan Văn Hóa các dân tộc lần thứ Nhất tại Hà Nội, tại đây phường đã dành được giải Huy Chương Vàng. -Năm 1994 giành được Huy Chương Bạc tại Liên Hoan Múa Rối toàn quốc tổ chức tại Hà Nội. -Ngoài ra phường còn giành được nhiều Huy chương, bằng khen, giấy khen của các tổ chức, các cuộc thi, hội diễn khác. -Thế hệ nối tiếp sau đó là các ông bà: Ông Nguyễn Văn Bốn; Nguyễn Văn Nghị; bà Đinh Thị Thư; ông Đinh Văn Thách; bà Thu Đồng; ông Đặng Văn Thà; ông Đinh Văn Thắng; Nguyễn Đình Sách; Đinh Văn Mận; Đinh Văn Thơm; Đinh Văn Thả; Đặng Văn Thực; Đào Trọng Lực; Ngô Minh Phong; Đinh Hữu Tự; Nguyễn Thị Thỏa; Nguyễn Văn Cường; Nguyễn Văn Trọng; Đinh Xuân Trách; bà Đinh Thị Lan (Long); bà Lưu Huy; Nguyễn Thị Lường...vv - Những năm tiếp sau đó đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, phường lại đứng trước những khó khăn của nền kinh tế thị trường, đất nước tích cực tham gia hội nhập quốc tế, nhiều loại hình văn hóa hiện đại trên thế giới du nhập vào nước ta không những đa dạng và phong phú. Mặc dù được các Sở, ban ngành văn hóa, cục nghệ thuật biểu diễn, phòng VHTT huyện Đông Anh, UBND xã Thụy Lâm…điều động đi phục vụ nhiều nơi nhưng chỉ là những ngày lễ lớn của đất nước hoặc giao lưu văn hóa. - Đứng trước sự khó khăn chung của nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác như: Tuồng, chèo, cải lương..vv dần mai một. Rối nước Đào Thục phải tự tìm lối đi riêng cho mình, tích cực khai thác thế mạnh của quê hương giàu truyền thống kết hợp với làng nghề làm Du lịch văn hóa dân gian. - Từ năm 2007 Phường bắt đầu tích cực hoạt động hiệu quả hơn, trực tiếp gõ cửa chào đón các công ty du lịch, quảng bá hình ảnh Rối Nước Đào Thục trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, quảng cáo trên Internet, trên các trang mạng xã hội, lập Phòng kinh doanh với đội ngũ nghệ nhân trẻ năng động tiếp cận CNTT, xây dựng Website và đẩy mạnh hoạt động tiếp thị tìm khách đến với làng rối. - Từ đó đến nay hàng tuần, hàng tháng Phường đều có những tour diễn theo sự chủ động của mình hơn, tại địa phương có nhiều show diễn phục vụ khách du lịch quốc tế. Và qua đây, phường đã được đón đi lưu diễn khắp các tỉnh thành trong nước và nhiều quốc gia khác trên Thế giới. Những chuyến đi lưu diễn để lại nhiều kỷ niệm nhất đó là lần đi Hà Lan, Thái Lan và 2 lần đi Côn Minh, Bằng Tường (Trung Quốc). - Những đối tác thường xuyên lâu năm gắn bó với rối nước Đào Thục như: Văn Miếu Quốc Tử Giám, Bảo tàng dân tộc học, Trung tâm bảo tồn di sản văn hóa, Bảo tàng lịch sử quốc gia,,vv.. - Những người con của làng Đào Thục sau khi công tác đã nghỉ hưu nhưng vẫn luôn tâm huyết gắn bó, dành nhiều tâm huyết xây dựng đường lối chỉ đạo định hướng giúp cho phường có được chỗ dựa vững chắc về tinh thần, có 3 anh em ông: Đinh Hoài Hiền, Đinh Văn Thi và đặc biệt là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – ông Đại Tá Đinh Thế Văn. Bí thư Chi bộ đảng nhiều năm liền - ông Đinh Hữu Bình..vv - Các Trưởng/phó Phường tiếp nối qua từng giai đoạn có ông: Nguyễn Văn Nghị; Đinh Văn Thắng; Nguyễn Văn Quảng; Đặng Văn Thà; Đào Trọng Lực; Ngô Minh Phong; Đinh Hữu Tự. - Hiện nay Phường vẫn đang tiếp tục mở rộng việc thu hút tuyển chọn nhiều lớp trẻ trong địa phương có trình độ, có tâm huyết để đào tạo thành đội ngũ nghệ nhân kế cận phát triển Phường ngày một chuyên nghiệp, giữ gìn nghề truyền thống quý báu của ông cha để lại như một báu vật gia truyền. - Còn nhiều những khó khăn khác, phường vẫn mong các cấp lãnh đạo, các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế hãy cùng với chúng tôi chung tay góp phần vào việc bảo tồn và phát huy cái giá trị nghệ thuật độc đáo có một không hai trên thế giới, niềm tự hào của người Việt Nam. SỰ KHÁC BIỆT CỦA RỐI NƯỚC ĐÀO THỤC Rối Nước Đào Thục có nét khác biệt nào với các phường rối khác trên cả nước Điểm khác biệt thứ nhất: Là tiết mục mở màn "Đốt pháo bật cờ" hay còn gọi là bật cờ hội, ở các Phường rối khác là Chú Tễu thường xuất hiện đầu tiên sau đó thấy sân khấu chưa được sẵn sàng lúc đó anh mới hô lên trống dong cờ mở và cờ mới được bật lên. Còn nghệ thuật rối nước Đào Thục thì sân khấu phải được chuẩn bị kỹ trước đó, đốt pháo bật cờ nghĩa là công việc làm sân khấu phải được chuẩn bị chu đáo trước khi người dẫn chương trình giới thiệu các tiết mục (MC) mới bắt đầu cho khai mạc chương trình. Trước đây hai bên giàn cờ sân khấu là hai hàng bá quan văn võ đứng hầu thể hiện sự uy nghi của rối nước Đào Thục, giúp người xem muốn đến được nghệ thuật rối nước vốn nó có nguồn gốc từ những tư duy tinh túy nhất của ông cha ta, những cư dân lúa nước sáng tạo nên. Thì từ khán giả đến được với buồng trò của nhà Thuỷ Đình phải được kiểm duyệt qua hai hàng quan binh, bên là cánh quan văn bên là cánh quan võ, cũng như bên thiện bên ác đối lập nhau thể hiện sự giám sát chặt trẽ mọi hoạt động diễn ra trong mỗi tiết trò. Tiếp đến phía nữa mới là sự nghiêm trang của tấm Y Môn ngăn cách danh giới giữa cuộc sống đời thường phía ngoài với bên trong buồng trò là sự tôn nghiêm của những linh hồn rối nước.

 Điểm khác biệt thứ hai: Đó là anh Ba Khí giáo trò, các phường khác là chú Tễu, Đây là nhân vật được xem như linh hồn của nghệ thuật rối nước, bởi rối nước được sinh ra từ cư dân trồng lúa nước "nền văn minh của nhân loại" bắt nguồn từ Việt Nam. Chú Tễu là hiện thân của anh nông dân hiền lành chất phác ngộ nghĩnh đáng yêu đại diện cho hình ảnh của anh nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Tễu hay còn gọi là tiếng cười để mua vui cho thiên hạ. Nhân vật này được xem là linh hồn của rối nước, anh vốn là người trên Thiên Cung lỡ trộm đào tiên nên bị Thượng Đế đưa xuống trần gian để gỡ rối mọi chuyện, cũng xuất hiện để mở màn trò rối tạo cầu nối giữa các trò rối với khán giả, nhưng ngay từ sự xuất hiện đã thấy anh băn khoăn trăn trở việc đời. Anh Ba Khí của rối nước Đào Thục – được chế tác hình ảnh một nhân vật chân thực hơn không còn là nhân vật Chú Tễu bụng phệ tay cầm quạt mo nữa, là thể hiện được tầm nhìn xa xôi từ thuở khai sinh ra rối nước Đào Thục của ông Tổ Đào Đăng Khiêm, sao lại nói vậy? Ba Khí là vừa đại diện cho hình ảnh Chú Tễu của Miền Bắc vừa là anh Ba Khía của Miền Nam, cũng là hình ảnh người dẫn chương trình, tổ chức các sự kiện, nhưng cao hơn Tễu ở cái tầm về ý nghĩa. Thuở đó cách đây cũng 300 năm Sài Gòn mới được thành lập, nhưng nước ta lúc bấy giờ chưa được thống nhất như hôm nay. Ngay từ lúc xuất hiện anh Ba Khí chỉ mang tính chất như một nhà tổ chức chương trình, ca ngợi quê hương đất nước, chào đón khán giả, luôn vui tươi hóm hỉnh. Đây là nghệ thuật đỉnh cao của thú chơi rối riêng của làng Đào Thục, chơi rối để mua vui cho thiên hạ. Qua phần tự giới thiệu rõ ràng là anh ta phải quay về buồng trò nhưng anh ta lại nói "Tôi ra đây tôi chẳng muốn về"...
 Biên soạn: Nguyễn Thế Nghị (sinh năm 1973) Phường múa rối nước dân gian Đào Thục. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng gửi về hòm thư góp ý: E-mail: roidaothuc@gmail.com Hotline: 094 845 1973
Bài viết này được chỉnh sửa lần cuối 10 năm trước