Nhà máy Thủy Điện Trị An
Vietnam /
Dong Nam Bo /
Bien Hoa /
World
/ Vietnam
/ Dong Nam Bo
/ Bien Hoa
Sviets / Việt Nam / / Đồng Nai /
Nhà máy thủy điện
Thêm thể loại
Nhà máy Thủy điện Trị An được xây dựng trên sông Đồng Nai, cách thành phố Hồ Chí Minh 65 km về phía Đông Bắc.
Công trình Thủy điện Trị An có ý nghĩa kinh tế tổng hợp với hai nhiệm vụ chính :
1/ Sản xuất điện với sản lượng trung bình : 1,7 tỉ kWh/năm
2/ Phục vụ công tác thủy nông cho TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ :
Duy trì lượng nước xả tối thiểu ( trung bình 200 m3/giây) phục vụ công tác đẩy mặn và tưới tiêu trong mùa khô ở vùng hạ lưu.
Cắt được đỉnh lũ để đảm bảo an toàn cho hạ lưu trong mùa lũ .
Nguồn thủy năng sông Đồng Nai đã được nghiên cứu, khảo sát qua một chặng đường lịch sử lâu dài, vào đầu thế kỷ 20. Từ năm 1913 đến 1973 đã có nhiều công ty điện lực nước ngoài như Pháp, Ðài Loan đề xuất các công trình nghiên cứu thác Trị An để phát điện .
Từ năm 1976 - 1978 Bộ Thủy lợi đã nghiên cứu toàn diện và triệt để hơn về quy mô cũng như hiệu quả kinh tế kỹ thuật của công trình .
Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Điện lực đã triển khai lập luận chứng Kinh tế - Kỹ thuật từ cuối năm 1981. Với sự phấn đấu nổ lực của ngành Năng lượng, được sự hợp tác chặt chẽ của Bộ Thủy lợi, sự giúp đỡ của thành ủy và UBND thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai cùng sự giúp đỡ của đoàn chuyên gia Liên Xô - Đã hoàn thành luận chứng KT-KT vào đầu năm 1983 với quy mô:
- Công suất thiết kế 400MW ( 4tổ máy )
- Sản lượng điện trung bình hàng năm : 1 ,7 tỉ Kwh
Công trình Thủy điện Trị An đã được bắt đầu và kết thúc với một tiến độ rất khẩn trương.
Một số mốc thời gian đáng ghi nhớ :
Tháng 9/1983 duyệt luận chứng Kinh tế- Kỹ thuật
30/4/1984 mở móng đập tràn
10/5/1985 đổ mẻ Bê tông đầu tiên ở Đập tràn
12/1/1987 ngăn sông Đồng Nai
01/1/1988 Khởi động tổ máy số 1
13/9/1989 Khởi động tổ máy số 4 .
Khởi đầu từ Ban chuẩn bị sản xuất ( thành lập ngày 15/8/1985), Nhà máy Thủy điện Trị An được chính thức thành lập theo QĐ số 998/NL/TCCB của Bộ Năng lượng ký ngày 02/12/1987.
Công trình được hoàn chỉnh vào năm 1991 sau 7 năm xây dựng với sự đầu tư to lớn của nhà nước, sự hợp tác có hiệu quả của Liên Xô và công sức đóng góp quý báu của nhân dân các tỉnh thành phía Nam .
Nhà máy là đơn vị sản xuất điện, hạch toán phụ thuộc, trước đây thuộc Công ty Điện lực II , nay trực thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt nam .
Dòng điện Trị An đã ra đời rất đúng lúc, trước hết cứu nguy cho sự thiếu hụt năng lượng trầm trọng của hệ thống điện ở một thời kỳ căng thẳng nhất vào cuối những năm 80, góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế -Xã hội miền Nam.
Công trình Thủy điện Trị An ra đời còn tạo nên hệ quả quý giá thậm chí còn hơn bản thân nó, đó là sự trưởng thành của đội ngũ Lao động đã tạo dựng nên Công trình. Từ Trị An, cùng với Công trình Thủy điện Hòa Bình -đội ngũ Xây dựng, Lắp máy và Vận hành có đầy đủ kỹ năng đã và đang tiến đến các Công trình tiếp theo : Thác Mơ, Ialy, Hàm Thuận- Đa Mi ... , và còn tiếp tục trên con đường điện khí hóa đất nước, con đường mà Bác Hồ vĩ đại đã vạch ra .
Trong quá trình 15 năm vận hành, từ 1988 đến 2002, để thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm của mình, Nhà máy luôn coi trọng những biện pháp, sáng kiến cải tiến kỹ thuật , ứng dụng tiến bộ khoa học, soạn thảo và ban hành các quy trình, quy chế trong các lĩnh vực liên quan đến thiết bị công nghệ và quản lý của nhà máy. Nhờ đó, Nhà máy đã luôn hoàn thành nhiệm vụ sản xuất và không để xảy ra sự cố nghiêm trọng nào.
Trong hàng loạt các công tác quan trọng, Nhà máy đã thực hiện nổi bật hai sự kiện:
Chương trình nâng công suất các tổ máy. Đây là đề tài cấp Bộ. Dưới dự chủ trì của Công ty Điện lực II, năm 1992 Nhà máy đã cùng chuyên viên của Bộ Năng lượng, Giáo sư các trường Đại học tiến hành thử nghiệm thành công việc nâng công suất tổ máy lên 10%, tức là từ 100 MW lên 110 MW. Kết quả là nhà máy có khả năng tăng công suất phủ đỉnh cho lưới vào giờ cao điểm hoặc hỗ trợ cho lưới khi nguồn điện nơi khác bị sự cố. Công trình đã tạo nên giá trị Kinh tế - Chính trị quan trọng trong những năm 1993, 1994 khi chưa có hệ thống 500KV và đến nay vẫn còn phát huy tác dụng.
Chương trình hoàn thiện hệ thống khí nén bù và thực hiện chế độ bù đồng bộ. Khi tiếp nhận bàn giao, hệ thống khí nén cho chế độ bù đồng bộ chưa được xây lắp hoàn chỉnh. Theo yêu cầu thiết kế, các tổ máy phải có khả năng hoạt động ở chế độ bù đồng bộ, đảm bảo phát hoặc nhận công suất vô công trong trường hợp cần thiết để ổn định điện áp lưới. Đặc biệt khi thời điểm đóng đường dây 500 KV đang đến gần, yêu cầu này càng trở nên bức thiết. Sau một thời gian khẩn trương thực hiện, Nhà máy đã thử nghiệm thành công chế độ bù đồng bộ trên các tổ máy, kịp thời phục vụ công tác đóng điện đường đây 500KV, tạo điều kiện tốt cho phương thức điều độ, góp phần ổn định lưới điện quốc gia .
Trong quá trình 15 năm vận hành nhà máy, các hạng mục công trình chính yếu như Đập tràn, Cửa nhận nước, Trạm phân phối ngoài trời, Gian máy, Phòng điều hành trung tâm, cảnh quan toàn bộ nhà máy , . . . tiếp tục được hoàn thiện về kỹ thuật và thẩm mỹ công nghiệp , đã trở thành niềm tự hào của tập thể lao động và xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
Các thành tích nhà máy đã đạt được
Cờ luân lưu "Ðơn vị thi đua dẫn đầu ngành Điện" năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng.
Huân chương Lao động hạng Hai, năm 1989
Cờ luân lưu "Đơn vị dẫn đầu thi đua khá nhất ngành Điện" năm 1993 của Chính phủ.
Cờ luân lưu "Ðơn vị thi đua khá nhất tỉnh Đồng Nai về phong trào bảo vệ An ninh Tổ quốc" năm 1993 của Bộ Nội vụ.
Huân chương Lao động hạng Ba, năm 1995.
Huân chương Lao động hạng Nhất, năm 1997.
Và nhiều bằng khen, giấy khen của các Bộ, Ban ngành, đoàn thể Trung ương và Địa phương.
Công trình Thủy điện Trị An có ý nghĩa kinh tế tổng hợp với hai nhiệm vụ chính :
1/ Sản xuất điện với sản lượng trung bình : 1,7 tỉ kWh/năm
2/ Phục vụ công tác thủy nông cho TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ :
Duy trì lượng nước xả tối thiểu ( trung bình 200 m3/giây) phục vụ công tác đẩy mặn và tưới tiêu trong mùa khô ở vùng hạ lưu.
Cắt được đỉnh lũ để đảm bảo an toàn cho hạ lưu trong mùa lũ .
Nguồn thủy năng sông Đồng Nai đã được nghiên cứu, khảo sát qua một chặng đường lịch sử lâu dài, vào đầu thế kỷ 20. Từ năm 1913 đến 1973 đã có nhiều công ty điện lực nước ngoài như Pháp, Ðài Loan đề xuất các công trình nghiên cứu thác Trị An để phát điện .
Từ năm 1976 - 1978 Bộ Thủy lợi đã nghiên cứu toàn diện và triệt để hơn về quy mô cũng như hiệu quả kinh tế kỹ thuật của công trình .
Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Điện lực đã triển khai lập luận chứng Kinh tế - Kỹ thuật từ cuối năm 1981. Với sự phấn đấu nổ lực của ngành Năng lượng, được sự hợp tác chặt chẽ của Bộ Thủy lợi, sự giúp đỡ của thành ủy và UBND thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai cùng sự giúp đỡ của đoàn chuyên gia Liên Xô - Đã hoàn thành luận chứng KT-KT vào đầu năm 1983 với quy mô:
- Công suất thiết kế 400MW ( 4tổ máy )
- Sản lượng điện trung bình hàng năm : 1 ,7 tỉ Kwh
Công trình Thủy điện Trị An đã được bắt đầu và kết thúc với một tiến độ rất khẩn trương.
Một số mốc thời gian đáng ghi nhớ :
Tháng 9/1983 duyệt luận chứng Kinh tế- Kỹ thuật
30/4/1984 mở móng đập tràn
10/5/1985 đổ mẻ Bê tông đầu tiên ở Đập tràn
12/1/1987 ngăn sông Đồng Nai
01/1/1988 Khởi động tổ máy số 1
13/9/1989 Khởi động tổ máy số 4 .
Khởi đầu từ Ban chuẩn bị sản xuất ( thành lập ngày 15/8/1985), Nhà máy Thủy điện Trị An được chính thức thành lập theo QĐ số 998/NL/TCCB của Bộ Năng lượng ký ngày 02/12/1987.
Công trình được hoàn chỉnh vào năm 1991 sau 7 năm xây dựng với sự đầu tư to lớn của nhà nước, sự hợp tác có hiệu quả của Liên Xô và công sức đóng góp quý báu của nhân dân các tỉnh thành phía Nam .
Nhà máy là đơn vị sản xuất điện, hạch toán phụ thuộc, trước đây thuộc Công ty Điện lực II , nay trực thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt nam .
Dòng điện Trị An đã ra đời rất đúng lúc, trước hết cứu nguy cho sự thiếu hụt năng lượng trầm trọng của hệ thống điện ở một thời kỳ căng thẳng nhất vào cuối những năm 80, góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế -Xã hội miền Nam.
Công trình Thủy điện Trị An ra đời còn tạo nên hệ quả quý giá thậm chí còn hơn bản thân nó, đó là sự trưởng thành của đội ngũ Lao động đã tạo dựng nên Công trình. Từ Trị An, cùng với Công trình Thủy điện Hòa Bình -đội ngũ Xây dựng, Lắp máy và Vận hành có đầy đủ kỹ năng đã và đang tiến đến các Công trình tiếp theo : Thác Mơ, Ialy, Hàm Thuận- Đa Mi ... , và còn tiếp tục trên con đường điện khí hóa đất nước, con đường mà Bác Hồ vĩ đại đã vạch ra .
Trong quá trình 15 năm vận hành, từ 1988 đến 2002, để thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm của mình, Nhà máy luôn coi trọng những biện pháp, sáng kiến cải tiến kỹ thuật , ứng dụng tiến bộ khoa học, soạn thảo và ban hành các quy trình, quy chế trong các lĩnh vực liên quan đến thiết bị công nghệ và quản lý của nhà máy. Nhờ đó, Nhà máy đã luôn hoàn thành nhiệm vụ sản xuất và không để xảy ra sự cố nghiêm trọng nào.
Trong hàng loạt các công tác quan trọng, Nhà máy đã thực hiện nổi bật hai sự kiện:
Chương trình nâng công suất các tổ máy. Đây là đề tài cấp Bộ. Dưới dự chủ trì của Công ty Điện lực II, năm 1992 Nhà máy đã cùng chuyên viên của Bộ Năng lượng, Giáo sư các trường Đại học tiến hành thử nghiệm thành công việc nâng công suất tổ máy lên 10%, tức là từ 100 MW lên 110 MW. Kết quả là nhà máy có khả năng tăng công suất phủ đỉnh cho lưới vào giờ cao điểm hoặc hỗ trợ cho lưới khi nguồn điện nơi khác bị sự cố. Công trình đã tạo nên giá trị Kinh tế - Chính trị quan trọng trong những năm 1993, 1994 khi chưa có hệ thống 500KV và đến nay vẫn còn phát huy tác dụng.
Chương trình hoàn thiện hệ thống khí nén bù và thực hiện chế độ bù đồng bộ. Khi tiếp nhận bàn giao, hệ thống khí nén cho chế độ bù đồng bộ chưa được xây lắp hoàn chỉnh. Theo yêu cầu thiết kế, các tổ máy phải có khả năng hoạt động ở chế độ bù đồng bộ, đảm bảo phát hoặc nhận công suất vô công trong trường hợp cần thiết để ổn định điện áp lưới. Đặc biệt khi thời điểm đóng đường dây 500 KV đang đến gần, yêu cầu này càng trở nên bức thiết. Sau một thời gian khẩn trương thực hiện, Nhà máy đã thử nghiệm thành công chế độ bù đồng bộ trên các tổ máy, kịp thời phục vụ công tác đóng điện đường đây 500KV, tạo điều kiện tốt cho phương thức điều độ, góp phần ổn định lưới điện quốc gia .
Trong quá trình 15 năm vận hành nhà máy, các hạng mục công trình chính yếu như Đập tràn, Cửa nhận nước, Trạm phân phối ngoài trời, Gian máy, Phòng điều hành trung tâm, cảnh quan toàn bộ nhà máy , . . . tiếp tục được hoàn thiện về kỹ thuật và thẩm mỹ công nghiệp , đã trở thành niềm tự hào của tập thể lao động và xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
Các thành tích nhà máy đã đạt được
Cờ luân lưu "Ðơn vị thi đua dẫn đầu ngành Điện" năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng.
Huân chương Lao động hạng Hai, năm 1989
Cờ luân lưu "Đơn vị dẫn đầu thi đua khá nhất ngành Điện" năm 1993 của Chính phủ.
Cờ luân lưu "Ðơn vị thi đua khá nhất tỉnh Đồng Nai về phong trào bảo vệ An ninh Tổ quốc" năm 1993 của Bộ Nội vụ.
Huân chương Lao động hạng Ba, năm 1995.
Huân chương Lao động hạng Nhất, năm 1997.
Và nhiều bằng khen, giấy khen của các Bộ, Ban ngành, đoàn thể Trung ương và Địa phương.
Các thành phố lân cận:
Toạ độ: 11°6'18"N 106°59'0"E
- Hồ Thủy điện Trị An 20 Km
- Hồ Thủy điện - Ban Tou Srah - Hydropower 174 Km
- Hồ thủy điện Buôn Kuốp 190 Km
- Hồ Đa Nhim 197 Km
- Thủy Điện An Khê KANAT 385 Km
- HOUAY LAMPHAN GNAI HYDROPOWER PLANT 80MW 476 Km
- Waterway Xekaman3 HPP 482 Km
- TNL Thủy điện A Lưới 576 Km
- Hồ Rào Quán 631 Km
- Hồ Thác Bà 1244 Km
- Xã Hiếu Liêm 1.6 Km
- Xã Trị An 2.9 Km
- Thị trấn vĩnh an vĩnh cửu 5.6 Km
- Xã Hiếu Liêm 7 Km
- Vườn Cam, quýt! 7.5 Km
- Khu Đồi Mỹ 9 Km
- Huyện Vĩnh Cữu 13 Km
- Huyện Trảng Bom 14 Km
- Thị xã Tân Uyên 18 Km
- Hồ Thủy điện Trị An 19 Km